Kỹ năng siêu phàm của người A Rem
Người A Rem vào rừng, trên tay chỉ cần một con dao là họ có thể sinh tồn mà không sợ đói rét. Từ con dao sắc lẹm này, họ có thể tạo ra những tư liệu sản xuất hiệu quả.
Nước uống từ dây rừng
Mặc dù tin lời ông Nguyễn Chí Sỹ, Bí thư chi bộ xã Tân Trạch, nhưng thực sự chúng tôi vẫn hoang mang nhưng không nói ra, khi mà giữa ngày hè nắng như đổ lửa lại không mang theo nước uống để vào rừng.
Ở những trạm dừng chân “bất đắc dĩ” do cánh báo chí chúng tôi không thể theo kịp bước chân của đoàn, già làng Đinh Rầu lại lặng lẽ len lỏi giữa những bụi rậm, dùng con dao bén ngọt của mình chặt khúc những dây leo to bằng cổ tay, dài chừng một mét, ôm ra cả bó để trước mặt mọi người bảo “uống đi cho đỡ khát”.
Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông cầm một khúc dây leo lên, dốc ngược, nước từ dây leo tuôn chảy thành dòng nuốt không kịp. Chúng tôi làm theo, một thứ nước mát lạnh, thơm ngon từ những dây leo tưởng chừng như vô dụng nằm ở hai bên lối đi tuôn đầy vòm miệng. Cơn khát tức thì biến mất.
Già làng Đinh Rầu giới thiệu: Ở vùng rừng này có đến trên 30 loại dây leo có thể dùng để giải khát. Mỗi cây có một vị riêng, từ hương lúa, hương khoai, đến hương trầm hay các hương gỗ quý trong rừng. Có những dây leo có vị chát nhưng lại rất đặc hiệu trong chữa bệnh đau bụng khi gặp phải lam sơn chướng khí.
Giữa muôn trùng khối núi đá vôi của Phong Nha – Kẻ Bàng, không phải nơi nào cũng có khe suối để có nước uống. Nhờ kỹ năng này, người A Rem có thể săn bắt hái lượm cả tháng trong rừng vẫn không sợ chết khát. Thậm chí, có những dây leo cho cả trăm lít nước dùng để nấu ăn hay tắm giặt.
Ở những nơi không có khe suối, chỉ cần tìm một cây dây leo thật to, thật dài, dùng dao cắt ở gốc rồi kéo nó về ở một hốc đá nào đó. Chỉ cần qua một đêm, hốc đá sẽ đầy nước. Người A Rem múc nước ở đó để dùng cho sinh hoạt hằng ngày.
Sản vật lấy từ suối Rục Cà Roòng.
Già làng Đinh Rầu cho biết: “Việc nhận biết dây leo có nước để dùng là bí truyền của người A Rem. Người Kinh cũng có thể nhận biết được vài loại dây leo, nhưng đa số họ dùng nước đọng trong các đốt cây lồ ô (thuộc họ tre, trúc mọc giữa rừng). Loại nước này có độc, vì muỗi và côn trùng thường vào đó sinh đẻ, nên rất dễ đau bụng hoặc sốt rét nếu không được nấu chín”.
Ông Sỹ cho biết thêm, người A Rem quý nước hơn tất cả. Họ quan niệm có nước là có sự sống, nên không gian sinh sống của người A Rem xưa thường là bên những con suối. Nước cho họ thức ăn, nước cho họ uống, nước cho họ tắm giặt… Việc tìm ra những loài dây leo có nước chỉ là giải pháp tạm thời của người A Rem trong mỗi chuyến đi xa ở những nơi không có khe suối.
Ngày nay, người A Rem vẫn còn lưu giữ lễ hội xuống nước từ ngàn xưa để lại. Hằng năm, cứ vào rằm tháng 7, người A Rem dắt díu nhau về con suối Rục Cà Roòng để tổ chức lễ hội xuống nước. Họ đặt những sản vật ngon nhất thu hái được lên những chiếc bàn đá giữa lòng suối Rục Cà Roòng, già làng đứng ra khấn vái trời đất, thần rừng, thần nước.
Xong xuôi, tất cả mọi người cùng ào xuống nước để tắm gội như cách tẩy trần trong một năm. Họ phân ra hai vùng, phụ nữ, con gái tắm riêng, đàn ông con trai tắm riêng, duy nhất chỉ có già làng mới được tắm ở đoạn suối trước khi đổ vào 3 cửa hang.
Có một điều đặc biệt, những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh nở, sau mỗi lần từ lễ hội xuống nước khoảng 1 tuần, trở về thì kiểu gì cũng mang bầu. Rất ít người A Rem bị vô sinh, nên con suối này trở nên nổi tiếng, những người hiếm muộn ở những tộc người khác vẫn lén lút đến đây để tắm với hy vọng sinh con.
Ông Sỹ lý giải: Có lẽ khi đến đây, nhờ sản vật phong phú, thời tiết mát mẻ, cộng với tinh thần thoải mái nên họ dễ mang bầu chăng? Còn có thần bí hay không thì thực sự khó giải thích.
Video đang HOT
Bữa cơm từ sản vật của Rục Cà Roòng
Chúng tôi tìm chỗ hạ trại bên suối Rục Cà Roòng, cũng là lúc mặt trời bắt đầu khuất núi. Nói hạ trại chứ thực chất là tìm cách mắc những chiếc võng dưới những tán cây bên suối. Một bếp lửa được nhóm lên từ những que củi khô, nhưng không phải bằng diêm hay bật lửa mà bằng chính hai hòn đá nằm lăn lóc bên suối.
Thấy chúng tôi háo hức với màn đánh lửa ngoạn mục của người A Rem, già làng Đinh Rầu tỉ mẩn dạy chúng tôi cách ghè hai hòn đá vào nhau để phát ra lửa. Theo già làng Đinh Rầu, loại đá nào cũng có thể phát ra lửa, nhưng đá càng cứng thì lửa càng mạnh. Ghè đá phải có kỹ thuật, hai hòn đá phải được đánh vào nhau liên tục và dứt khoát để tia lửa làm nóng bùi nhùi và bốc cháy.
Trong lúc chúng tôi đang học cách ghè đá, những thanh niên A Rem đi cùng, người nào việc ấy tỏa ra khắp hướng để tìm sản vật cho bữa cơm tối của đoàn. Đinh Kinh thì mang theo mảnh lưới trầm mình xuống suối, Đinh Lâm ngồi vót lao đâm cá, Đinh Cu men theo bờ suối hái rau rừng.
Trong lúc chờ cá vướng vào lưới, Đinh Kinh tranh thủ nhặt những con ốc khe đen thui, to bằng đầu ngón tay cho vào rá (được đan bằng tre, nhỏ hơn rổ). Nghe nói đây là loài ốc khe ngon nhất, chỉ có ở suối Rục Cà Roòng.
Già làng Đinh Rầu đang sắp xếp lễ vật trên bàn đá thiêng ở suối Rục Cà Roòng mô tả lễ hội xuống nước của người A Rem.
Chưa đến 1 giờ đồng hồ, mỗi người mỗi thứ, nào là ốc khe, cá piu, rau dớn… Đặc biệt Đinh Cu còn hái thêm được một mớ rễ cây “tăng lực” cho đàn ông mà người A Rem gọi là A Roàng PLài. Đây là loại cây mọc ở hai bên suối, rễ nó xuyên đất đá để vươn tới nơi có nước suối. Người hái chỉ cần cắt phần nhỏ ra dưới nước của rễ cây mang về dùng. Nghe nói loại này tốt nhất là ngâm rượu đủ 3 tháng 10 ngày mang ra dùng, còn không thì bỏ vào nồi nấu nước uống cũng có tác dụng tăng lực.
Bữa cơm tự kiếm vội bên suối nhưng không kém phần thịnh soạn, đủ những món từ sản vật của vùng đất thiêng Rục Cà Roòng. Nào là cá piu nướng, nấu canh chua, rau dớn luộc, xào, ốc khe luộc… Và một can rượu đoác mang sẵn từ bản đi, vì chuyến đi ngắn, không đủ thời gian cho rượu đoác lên men ở trong rừng. Hầu hết bữa cơm đều được chế biến từ sản vật lấy ngay tại rừng, duy chỉ có cơm là gạo từ nhà mang theo.
Bữa cơm thơm phức, tiếng cười nói vang cả một góc rừng. Già làng Đinh Rầu nói: “Chuyến này có nhà báo đi theo nên phải mang nhiều thứ, còn người A Rem mình đi chỉ mang theo dao thôi. Vào rừng cái gì cũng có, biết cách làm là không sợ đói mô”.
Theo già làng Đinh Rầu, thức ăn trong rừng rất dễ kiếm, lấy bột nhúc, bột đoác (loại cây họ dừa) thay cơm, đến muối cũng có thể khắc phục bằng cách đốt cỏ tranh lấy than làm muối.
Chỉ cần một tay lưới nhỏ là giải quyết được thức ăn cho nhiều người.
Ông Nguyễn Chí Sỹ khẳng định: “Kỹ năng sinh tồn của người A Rem đạt đến độ siêu phàm”.
Họ uyển chuyển trong cách tiếp cận với rừng, tôn trọng núi rừng như chính họ. Ngay tên gọi các sự vật, hiện tượng của người A Rem bao giờ cũng có chữ A đứng đầu. Ngay cách lấy mật ong của người A Rem cũng đặc biệt. Họ cố gắng không làm tổn thương đến con ong.
Họ không bao giờ dùng bùi nhùi để hun ong. Họ trèo lên cây mặt đối mặt với lũ ong, dùng dao cắt phần sáp ong mang xuống mặc cho ong bâu đen người. Bao giờ cũng vậy, họ không cắt hết tổ ong, mà chừa lại một phần nhộng và mật để ong phát triển, mùa sau cho mật.
Nghề lấy mật ong của người A Rem đạt đến độ tuyệt kỹ. Cách đây 3 năm, ở A Lưới (Thừa Thiên – Huế), một cây cổ thụ có đến 500 tổ ong, dân bản địa không dám lên lấy mật, bởi cứ động vào tổ này thì ong ở tổ kia xua quân đốt. Người bản địa phải tìm ra Tân Trạch để thuê người A Rem vào lấy mật. Họ nằm ở trên cây đúng một tuần mới lấy hết mật ong trên cây cổ thụ kia.
Theo_Zing News
Thủ tục đăng ký giấy khai sinh cho con ngoài giá thú
Theo quy định pháp luật, việc đăng ký khai sinh cho con không phụ thuộc vào cha, mẹ của người con đó có đăng ký kết hôn hay không. Việc không đăng ký kết hôn không mất quyền làm cha, làm mẹ.
Theo quy định của Nghị định số 58/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch, để đảm bảo quyền được khai sinh cho trẻ em khi sinh ra, con trong giá thú và con ngoài giá thú đều bình đẳng về việc được đăng ký khai sinh mà không có bất kỳ sự phân biệt nào cả.
Thủ tục đăng ký giấy khai sinh cho con ngoài dã thú - Ảnh minh họa
Thủ tục đăng ký khai sinh được quy định chung như sau:
- Việc đăng ký khai sinh cho trẻ em được thực hiện tại UBND cấp xã nơi cư trú của người mẹ. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ thì đăng ký khai sinh tại UBND cấp xã nơi cư trú của người cha. Tuy nhiên, đối với trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú nếu không xác định được người cha, phần ghi về người cha ghi trong sổ đăng ký khai sinh và giấy đăng ký khai sinh để trống. Nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, Uỷ ban nhân dân cấp xã kết hợp việc nhận con và đăng ký khai sinh.
- Hồ sơ đăng ký khai sinh bao gồm: Giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi đứa trẻ sinh ra cấp, nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, Giấy chứng sinh được thay thế bằng Giấy xác nhận của người làm chứng, nếu không có người làm chứng thì người làm giấy khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực. Trường hợp cha mẹ có đăng ký kết hôn thì xuất trình Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.
Quy định tại: Điều 15, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy định:
"1. Người đi đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha mẹ có đăng ký kết hôn).
Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì Giấy chứng sinh được thay thế bằng giấy xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người làm giấy khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Trong trường hợp cán bộ tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
2. Sau khi kiểm tra các giấy tờ hợp lệ, cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho người đi khai sinh một bản chính Giấy khai sinh. Bản sao giấy khai sinh được cấp theo yêu cầu của người đi khai sinh.
3. Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha ghi trong sổ đăng ký khai sinh và giấy đăng ký khai sinh để trống. Nếu tại thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Uỷ ban nhân dân cấp xã kết hợp việc nhận con và đăng ký khai sinh".
Thủ tục nhận cha cho con được tiến hành theo 2 trường hợp như sau:
Trường hợp thứ nhất: Việc nhận cha cho con do các bên tự nguyện và không có tranh chấp được thực hiện tại UBND cấp xã theo quy định tại Điều 34, Nghị định số 58 như sau:
- Người nhận cha cho con nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), trường hợp nhận cha cho con chưa thành niên phải có sự đồng ý của người đang là mẹ của đứa trẻ, trừ trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, đồng thời phải xuất trình các giấy tờ sau đây: Giấy khai sinh của người con; Giấy tờ, đồ vật hoặc chứng cứ khác chứng minh quan hệ cha - con (nếu có).
- Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha cho con là đúng sự thật và không có tranh chấp UBND cấp xã đăng ký việc nhận cha cho con. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
- Khi đăng ký việc nhận cha cho con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt và UBND xã sẽ cấp Quyết định công nhận việc nhận cha cho con.
Căn cứ vào Quyết định công nhận này, các bên có thể đề nghị UBND xã đăng ký bổ sung phần ghi thông tin người cha trên Giấy khai sinh cho trẻ em.
Trường hợp thứ hai: Các bên không tự nguyện trong việc nhận cha cho con, tức là có tranh chấp về việc nhận cha cho con, có thể là người cha không thừa nhận đứa con hoặc người mẹ không đồng ý về việc nhận cha cho con của mình đối với trường hợp con chưa thành niên hoặc người con không đồng ý nhận cha khi đã thành niên hoặc có người thứ ba cùng yêu cầu nhận cha cho con. Trường hợp này, người có yêu cầu nhận cha cho con phải làm đơn khởi kiện ra Tòa án cấp huyện.
Đây là một loại án hôn nhân gia đình, cụ thể là tranh chấp về xác định cha cho con do TAND có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và Tố tụng dân sự.
Trường hợp này, người yêu cầu phải cung cấp các chứng cứ chứng minh quan hệ cha - con, ví dụ như: thư từ trao đổi giữa cha mẹ có tình cảm yêu đương, thời điểm quan hệ giữa hai người, thông báo việc có thai, trao đổi về trách nhiệm nuôi con... hoặc kết quả giám định ADN.
Quy định tại: Điều 34, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch có quy định:
" 1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:
a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;
b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có)
2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.
Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên".
Luật Gia ĐỒNG XUÂN THUẬN
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Nghẹt thở di lý sát thủ vụ đốt nhà, giết con của người tình Từ lời khai của các nhân chứng, chân dung kẻ sát nhân được dựng lên. Ngay sau đó, Nguyễn Văn Dũng bị phát lệnh truy nã toàn quốc. Bị di lý từ Đồng Nai về Hưng Yên vào rạng sáng 1/6, Dũng tỏ thái độ bình thản. Lý giải cho hành vi dã man của mình, hắn đổ lỗi cho việc bà Hồng...