Kỳ 5: Tỉnh táo, có lý trí, không mắc mưu Trung Quốc
Căn cứ vào các lý thuyết và thông qua quá trình xác lập và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà các bên nêu ra (như đã đề cập ở 4 kỳ trước), có thể đưa ra nhận xét: Trung Quốc đã và đang cố gắng viện dẫn tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh, bảo vệ cho quan điểm của mình về quá trình xác lập, thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV). Điều này là sai trái, Việt Nam và cộng đồng quốc tế không công nhận.
Không chứng minh được bằng pháp lý thì sử dụng sức mạnh
Sự thật là Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1956, lợi dụng sau hội nghị Geneve, hai miền Nam – Bắc Việt Nam cần một khoảng thời gian để luân chuyển quyền quản lý, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1974, lợi dụng thời điểm Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà suy sụp, sự quản lý đối với khu vực Hoàng Sa bị yếu đi, Trung Quốc sử dụng không quân, hải quân đánh chiếm nốt cụm phía Tây quần đảo Hoàng Sa, hoàn thành việc chiếm đóng, biến nó trở thành một căn cứ làm bàn đạp tiến tiếp xuống phía Nam.
Năm 1988, khi Việt Nam đang trong thời điểm khó khăn về kinh tế, chính trị, ngoại giao, Trung Quốc đem quân chiếm một số bãi cạn ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo là hành động không thể biện bạch trước dư luận quốc tế và luật pháp quốc tế đương đại.
Rõ ràng, quan điểm cũng như hành động của Trung Quốc đưa ra từ xưa đến nay hoàn toàn sai trái. Tiến sĩ Trục nhấn mạnh, các nước trên thế giới từ xưa đến nay có nhiều nhà hàng hải tài ba. Họ cũng đã đi qua rất nhiều vùng đất, vẽ hải đồ, đặt tên cho những vùng đất đã đi qua. Như vậy, cứ lấy luận điểm đã từng đặt chân đến vùng đất nào để đòi chủ quyền vùng đất đó thì rất mơ hồ, có tính ngụy biện.
Độc chiếm Biển Đông là mưu đồ từ rất lâu của Trung Quốc. Quốc dân Đảng mượn cớ quân đồng minh ra tiếp quản, giải giáp vũ khí quân Nhật sau khi đại chiến thế giới lần thứ 2 kết thúc, đưa một hạm đội do Lâm Tuân chỉ huy gồm 4 con tàu, lợi dụng nhiệm vụ giải giáp quân Nhật để chiếm hai quần đảo. Tại Hoàng Sa, hạm đội này đã tùy tiện lấy tên của bốn con tàu để đặt tên cho các đảo mà trước đó Việt Nam đã đặt tên.
Sau đó đến những năm 50 của thế kỷ 20, Quốc dân Đảng bị thất thủ. CHND Trung Hoa ra đời và Quốc dân Đảng chạy ra Đài Loan, đồng thời rút toàn bộ quân ở khu vực Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam về. Trung Quốc đã lợi dụng tình thế để chiếm nhóm đảo ở phía đông và Đài Loan quay trở lại chiếm đảo lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, mà họ gọi là Thái Bình, chúng ta gọi là Ba Bình.
Còn một chuyện cũng liên quan tới sau này là việc trong hạm đội của Quốc dân Đảng, có một ông Vụ phó Vụ Mỏ và Địa chất của Trung Hoa dân quốc. Ông này đi theo và khi đó đã vẽ nghịch ra đường biên giới chữ U gồm 11 đoạn. Một sơ đồ không có cơ sở gì sau này đã bị Trung Quốc lợi dụng để hiện thực hóa âm mưu độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đưa ra lập luận rằng đây là con đường đã tồn tại trong lịch sử, có trước Công ước Luật Biển năm 1982, và điều này hết sức phi lý, không được bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thừa nhận.
Về ý kiến của ông Dương Trạch Vỹ cũng như lời phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương viện dẫn lời lẽ trong Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ rõ: Trung Quốc đang cố tình hiểu sai, xuyên tạc để biện hộ cho việc họ đã sử dụng lực lượng, lợi dụng cơ hội để chiếm đóng phi pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và một số khu vực ở Trường Sa.
Thanh niên xem các bản đồ khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam
Video đang HOT
đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Ảnh: Mic.gov.vn.
Đánh lận thông tin với âm mưu độc chiếm
“Việc Trung Quốc nhắc đến văn bản của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nhưng đó không phải là công hàm. Trung Quốc viện dẫn điều này để cố chứng minh cho lập luận của Trung Quốc là phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là vô lý. Tôi nói rõ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công thư chứ không phải công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai. Họ thì nói rằng chúng ta đã thừa nhận nhưng đi sâu vào nội dung đó thì không hề có một câu nào nói đến việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là của Trung Quốc, mà chỉ nói rằng chính phủ và nhân dân Việt Nam tán thành và ủng hộ lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc theo tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc. Rõ ràng chúng ta chỉ dừng lại ở thừa nhận và ủng hộ chiều rộng lãnh hải 12 hải lý”.
Tiến sĩ Trục giải thích rõ bối cảnh: Thời điểm đó, Trung Quốc đưa tuyên bố 12 hải lý cũng là một sự kiện khá nổi bật liên quan tới việc thế giới đang có quá trình đấu tranh giữa các nước có nền hàng hải phát triển và các nước ven biển có nền hàng hải kém phát triển hơn, một bên thì muốn thu hẹp lãnh hải của các quốc gia ven biển vào càng sát bờ càng tốt, không cho phép mở rộng đến 12 hải lý. Các quốc gia khác, đặc biệt các quốc gia ở thế giới thứ ba, các nước đang phát triển muốn mở rộng chủ quyền của mình ra ở phạm vi lớn hơn. Trong bối cảnh đó Trung Quốc là nước tiên phong tuyên bố điều đó thì với một quan hệ về mặt hữu nghị giữa hai nước thì chúng ta lên tiếng ủng hộ cũng chính là chúng ta ủng hộ tiếng nói chung của cộng đồng các nước đang phát triển, là vấn đề hoàn toàn hết sức thiện chí.
Trở lại vấn đề Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou-981) sâu trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Tiến sĩ Trục đã chỉ rõ ý đồ sâu xa của Trung Quốc: Bằng việc Trung Quốc lý giải đặt giàn khoan ấy cách bãi Trung Kiến (tức Tri Tôn của Việt Nam – PV) là 17 hải lý, có nhiều người lầm tưởng khu vực ấy là của Trung Quốc. Nhưng sau khi Việt Nam nói rõ quần đảo Hoàng Sa bao gồm cả đảo Tri Tôn là chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép, công luận quốc tế đã quay ra ủng hộ Việt Nam vì biết Trung Quốc sai.
Nhấn mạnh tới chính nghĩa của Việt Nam, ông Trục nhấn mạnh: Tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đã cố tình lập lờ trong cách vận dụng những quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 để đặt giàn khoan ở vị trí dễ làm cho người dân thế giới và người dân Trung Quốc hiểu lầm rằng vùng biển đó thuộc chủ quyền của Trung Quốc, từ đó mà quay ra ủng hộ cho sự sai trái của họ. Cách “đánh lận” kiểu này, nếu ta không tỉnh táo, không phân tích cho thế giới hiểu, Việt Nam sẽ sa vào cái bẫy đã giăng sẵn. Do đó, cần hết sức tỉnh táo, không mắc mưu của Trung Quốc.
Theo ANTD
Kỳ 4: Cộng đồng quốc tế đã công nhận sự quản lý của Việt Nam đối với Hoàng Sa
Về tính liên tục của sự chiếm hữu thực sự, Tiến sĩ Trần Công Trục đưa ra một số mốc lịch sử hết sức cụ thể, có ý nghĩa: Với tư cách là đại diện Nhà nước Việt Nam về đối ngoại trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp, Cộng hòa Pháp đã tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo Hiệp ước Patenotre năm 1884, Chính quyền thuộc địa Pháp đã tiến hành các hoạt động đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc tiếp tục bảo vệ, quản lý và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã (bên trái) tặng bản vẽ lại An Nam Đại quốc họa đồ
cho UBND huyện Hoàng Sa, TP Đà Nẵng
Cụ thể, sau một thời gian tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát tại thực địa của các nhà khoa học và những cuộc trao đổi giữa những chính khách Pháp có liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, ngày 8-3-1925, Toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố khẳng định, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là bộ phận lãnh thổ thuộc địa của Pháp. Ngày 19-3-1926, Thống đốc Nam Kỳ cấp giấy phép nghiên cứu mỏ ở đảo Trường Sa cho Công ty Phosphat của Bắc Kỳ.
Ngày 13-4-1930, Thông báo hạm Malicieuse do thuyền trưởng De Lattre điều khiển ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của Toàn quyền Đông Dương dựng bia chủ quyền, đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo, đá, bãi phụ thuộc. Ngày 23-9-1930, Chính phủ Pháp gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về sự kiện đóng giữ quần đảo Trường Sa theo đúng thủ tục. Ngày 31-12-1930, Phòng Đối ngoại Phủ Toàn quyền Đông Dương gửi báo cáo lên Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp về những hoạt động đóng giữ đảo Trường Sa và các đảo phụ cận, cũng như các tư liệu khảo cứu về pháp lý bảo vệ cho sự kiện đóng giữ này.
Ngày 4-1-1932, Chính phủ Pháp gửi Công hàm tới Công sứ Trung Quốc tại Paris khẳng định chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa và đề nghị giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hữu nghị hoặc bằng phương thức trọng tài quốc tế. Trung Quốc từ chối đề nghị này.
Ngày 18-2-1937, Pháp lại chính thức yêu cầu Trung Quốc áp dụng phương thức trọng tài quốc tế để xác định chủ quyền quần đảo Hoàng Sa; Trung Quốc lại khước từ.
Ngày 26-11-1937, Pháp phái kỹ sư trưởng J. Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ, nghiên cứu các điều kiện định cư ở quần đảo này. Năm 1938, Pháp phái các đơn vị Bảo an đến đồn trú trên các đảo và xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng được Tổ chức Khí tượng Thế giới cho đăng ký với số hiệu là 48859 ở đảo Phú Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 15-6-1938, Pháp xây xong trạm khí tượng ở đảo Ba Bình, quần đảo Trường Sa. Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi trước đây. Ngày 15-6-1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brevie ký Nghị định 156-S-V thành lập đơn vị hành chính cho quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
An Nam Đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định Paracels
(Cát Vàng, Hoàng Sa) nằm trong vùng biển Việt Nam. Ảnh: ĐNĐT
Tháng 6-1938, một đơn vị lính Bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa. Một bia chủ quyền đã được dựng tại đảo Hoàng Sa có khắc dòng chữ: "Republique Francaise-Empire d'Annam-Achipel de Paracel 1816-Ile de Pattle 1938".
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản tuyên bố sáp nhập các quần đảo trong Biển Đông vào các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Ngày 4-4-1939, Chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 15-8-1945, Nhật thua trận phải rút khỏi Đông Dương và ngày 26-8-1945, quân đội Nhật phải rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Sau khi Nhật rút đi, mở ra một thời kỳ mới vô cùng phức tạp. Tiến sĩ Trục cho biết, trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946, đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng, theo Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8-3-1949, Pháp dựng lên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu. Tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong năm 1949, Tổ chức Khí tượng Thế giới đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số 48419.
Ngày 14-10-1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ ngày 5-9 đến 8-9-1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng ngày 5-9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận, hội nghị đã bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8-9-1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước đã ghi rõ: "Nhật Bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly" (khoản f).
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết đã công nhận một nước có nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất. Điều 1 của Hiệp định đã quy định lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến tạm thời để phân chia quyền quản lý lãnh thổ giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam. Giới tuyến tạm thời này cũng được kéo dài bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi (Điều 4). Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam.
Tháng 4-1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, đã ra tiếp quản nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Trước những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối. Ngày 24-5 và 8-6-1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh, quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa "luôn luôn là một phần của Việt Nam" và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày 13-7-1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Từ ngày 17-1 đến 20-1-1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này.
Theo ANTD
Tàu cá Trung Quốc uy hiếp tàu cá Việt Nam Du đang đanh băt trên ngư trương truyên thông thuôc chu quyên Viêt Nam nhưng cac tau ca Viêt Nam luôn bi cac tau ca cua Trung Quôc tim cach ngăn can, uy hiêp. Chiêu nay 3.6, Cuc Kiêm ngư (Bô Nông nghiêp va Phat triên nông thôn) cho biết, phia Trung Quôc thương xuyên duy tri khoang 115 tau cac loai ơ...