Kỳ 2: Những người đảo ngược cuộc chơi
Việc liên lạc trực tiếp với phần lớn số điệp viên Xô-viết trước chiến tranh chỉ được nối lại vào năm 1945 khi Hồng quân tiến vào Đông Âu. Một trong những cách liên lạc mang tính đối phó tạm thời là thông qua những người đưa tin để chuyển đi các thông tin tối quan trọng.
Bẻ mã
Nếu như ở thời bình, người đưa tin có thể đi lại khắp châu Âu, thì trong thời chiến mọi chuyện lại khác hẳn. Họ không chỉ đối mặt với nguy cơ bị Gestapo (Cơ quan Mật vụ của Đức Quốc xã) bắt giữ, mà còn có thể bị thiệt mạng bởi “tên bay đạn lạc”.
Trong khi đó, tại Trung Quốc và Nhật Bản, các điệp viên Xô-viết vẫn hoạt động tích cực. Một vài điệp viên nằm vùng bất hợp pháp tiếp tục hoạt động trong vùng tạm chiến ở Pháp, Bỉ và Hà Lan. Tình báo Xô-viết cũng vẫn khá hiệu quả ở Mỹ, Anh và các quốc gia trung lập như Thụy Điển và Thụy Sĩ.
Điệp viên huyền thoại Richard Sorge. (Ảnh: historynet.com)
Tháng 7-1941, tức là ba tuần sau khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô, nhìn bên ngoài, kho trữ cá gần bến cảng ở thủ đô Stockholm (Thụy Điển) vẫn trông bình thường như những tòa nhà xung quanh. Nhưng bên trong đó lại chứa đựng một bí mật. Đây là trụ sở của Ban Mã hóa và Giải mã của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Thụy Điển.
Allan Nyblad, một người đưa tin của Bộ Chiến tranh Thụy Điển đang cân nhắc phải làm gì. Ông được Bộ Tổng tham mưu tin tưởng giao cho nhiệm vụ chuyển đi các giấy tờ khẩn cấp và quan trọng nhất. Allan Nyblad là người tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc và chỉ trao “gói hàng” của mình tận tay người nhận theo lệnh, điều đó đã gây được ấn tượng mạnh với Bộ trưởng Chiến tranh Thụy Điển. Tuy nhiên, chính quyền Thụy Điển không biết rằng, Allan Nyblad làm việc cho tình báo Liên Xô.
Khi ấy, để thuận tiện cho việc đi lại, xe đạp của người đưa tin được gắn biển số đặc biệt, tức là sẽ không bị cảnh sát địa phương chặn lại. Một hôm, sau khi nhận được “gói hàng” phải gửi đến Bộ Tổng tham mưu, Allan Nyblad đạp xe qua một khu nhà kho yên tĩnh rồi đột ngột ngoặt vào một ngõ vắng vẻ. Sau khi chắc chắn không bị ai theo dõi, ông tháo biển số xe đặc biệt ra và thay bằng biển xe thường. Ông đến một ngôi nhà hai tầng rồi bước vào gặp Semyon Starostin, điệp viên Xô-viết mật danh “Kent”.
Vỏ bọc của Semyon Starostin bao gồm chức danh giám đốc một công ty tổ chức du lịch tại Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch và trưởng đại diện hãng hàng không quốc gia Liên Xô Aeroflot. Tháng 11-1941, ông quay về Liên Xô khi một “chân rết” của ông bị bắt.
Khi tất cả các tài liệu do Allan Nyblad mang đến đã được chụp xong, Semyon Starostin bỏ hết giấy tờ vào một phong bì mới. Ông có trong tay rất nhiều con dấu của các cơ quan Thụy Điển để gửi phong bì đi trót lọt. Nhờ mạng lưới của điệp viên “Kent”, Mát-xcơ-va nhận được báo cáo hằng ngày về hoạt động của địch dọc khắp tuyến mặt trận phía Đông do người Thụy Điển vẫn theo dõi phía phát-xít Đức và đã “bẻ mã” được họ.
Năm 1940, Thụy Điển nghi ngờ phát-xít Đức có kế hoạch xâm lược nước mình. Stockholm tìm cách phát hiện trước ý đồ của Hitler. Chỉ trong vòng 2 tuần cặm cụi với độc bút chì và giấy, Giáo sư toán học người Thụy Điển Arne Beurling đã bẻ được mật mã quân sự và ngoại giao của phát-xít Đức. Điều này cho phép Thụy Điển giải được các liên lạc đã mã hóa của phát-xít Đức và với điệp viên “Kent”, tất cả những gì người Thụy Điển biết thì Mátxcơva cũng biết.
Video đang HOT
Tháng 1-1942, Allan Nyblad bị phía Thụy Điển bắt và bị kết án 12 năm tù khổ sai. Nhưng đến lúc đó, Mátxcơva đã có được thông tin làm cách nào Thụy Điển bẻ được mật mã của Đức. Đến tháng 6 năm đó, khi Đức phát hiện ra Thụy Điển đã bẻ được mật mã, phía Liên Xô cũng đã có thể tự bẻ khóa được hệ mã mới của Đức.
Nguồn tin vô giá về toan tính của Nhật Bản
Ngày 18-10-1941, quan hệ Nhật Bản và Liên Xô đang trong trạng thái “hòa hoãn đầy căng thẳng”. Rạng sáng hôm đó, cơ quan phản gián Nhật Bản mở một chiến dịch vây bắt mạng lưới điệp viên Liên Xô. Một trong những người bị bắt là Richard Sorge. Trong khi Richard Sorge bị đưa đi, căn hộ của ông bị lục soát kỹ lưỡng. Tại đây, mật vụ Nhật tìm thấy những tài liệu buộc tội ông như máy ảnh và một xấp ảnh chụp tài liệu.
Richard Sorge sinh ra tại Đông Nam nước Nga, nhưng ngay từ bé ông đã cùng gia đình chuyển tới sống ở Đức. Sau khi chiến đấu trong quân đội Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Richard Sorge trở thành một người Cộng sản nhiệt thành và đến Mátxcơva. Tại đây, ông được tình báo quân sự Xô-viết tuyển dụng rồi gửi trở lại Đức dưới vỏ bọc nhà báo và cảm tình viên Quốc xã. Điều này đã đem lại nhiều thuận lợi cho ông cho đến tận tháng 10-1941, khi ông bị người Nhật bắt. 3 năm sau đó, Richard Sorge bị treo cổ. Đến năm 1964, ông được truy tặng phần thưởng Nhà nước cao quý nhất là danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Mạng lưới của Richard Sorge bao gồm 32 điệp viên người Nhật Bản, 4 người Đức, 2 người Nam Tư và 1 người Anh, trong đó đáng chú ý có điện đài viên người Đức Bruno Wendt, nhà báo người Nam Tư Branko Vukelic và nhà báo người Nhật Bản Hatsumi Ozaki, một cố vấn của Thủ tướng Nhật Bản Konoe. Một nguồn tin đáng giá khác của mạng lưới là Eugen Ott, Đại sứ Đức tại Nhật Bản và là một trong những người “đặt trọn niềm tin” vào Richard Sorge.
Việc Richard Sorge bị bắt và nhóm của ông bị phát hiện là tổn thất nặng đối với tình báo Liên Xô. Ông là một nguồn tin vô giá về các toan tính của Nhật Bản và Đức tại Viễn Đông. Chiến công lớn nhất của Richard Sorge là xác minh được việc Nhật Bản không có kế hoạch tấn công Liên Xô trong năm 1941 như ban lãnh đạo Liên Xô lo ngại.
Tháng 9-1941, từ Tokio, ông gửi về một điện tín với nội dung: “Theo lời Ozaki, Bí thư Nội các, Chính phủ Nhật Bản đã quyết định sẽ không có hành động chống Liên Xô trong năm nay nhưng quân đội vẫn đóng ở Mãn Châu để có thể tấn công vào mùa Xuân tới nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Sau ngày 15-9, vùng Viễn Đông của Liên Xô có thể được xem là an toàn, không bị Nhật tấn công”.
Thông tin vô cùng quan trọng này đến vào lúc quân Đức vừa tung đòn tấn công tổng lực vào Mátxcơva. Nó cho phép Bộ Tổng tham mưu quân đội Xô-viết rút nhanh 32 sư đoàn từ Siberi và Viễn Đông về cứu nguy cho thủ đô Liên Xô. Ngày 5-12-1941, các sư đoàn này dẫn đầu cuộc tổng phản công đẩy quân Đức lùi xa khỏi cửa ngõ Mátxcơva. Đó là một chiến thắng quan trọng mang công lớn của Richard Sorge.
(Kỳ 3: “Dàn nhạc Đỏ”)
Theo Đặng Lâm Vũ
Quân đội Nhân dân
Cuộc chiến ngầm trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Khi Adolf Hitler xua quân xâm lược Liên Xô vào tháng 6-1941, mạng lưới điệp viên Xô-viết ít nhiều bị xáo trộn. Thực tế cho thấy, phát-xít Đức đã có bước khởi đầu lấn lướt hơn trên mặt trận tình báo. Tuy nhiên, lực lượng tình báo Liên Xô đã nhanh chóng phản công.
LTS: Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã có nhiều tài liệu về cuộc chiến khốc liệt này được giải mật và công bố. Một trong số đó là bộ phim tài liệu Bão táp Xô-viết (Soviet Storm), được công chiếu trên truyền hình Nga năm 2011. Không chỉ mô tả chân thực chặng đường dài của quân và dân Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, bộ phim còn có một tập mô tả kỹ lưỡng một thế hệ điệp viên Xô-viết dũng cảm và mưu trí -những người đã góp công không nhỏ vào chiến thắng của "Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại".
Kỳ 1: Vạn sự khởi đầu nan
Chiến sĩ Hồng quân Liên Xô báo cáo kết quả trinh sát tại mặt trận năm 1941. (Ảnh: Corbis)
Chiếc va-li của Tùy viên hải quân Liên Xô
Ngày 21-6-1941, một đoàn tàu tốc hành từ Berlin cập ga Belorussia ở Mátxcơva. Trên tàu có Mikhail Vorontsov, Tùy viên hải quân của Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, với một chiếc va-li cột chặt vào tay. Hai ngày trước đó, M. Vorontsov nhận được điện tín khẩn lệnh cho anh phải trở về Mátxcơva ngay lập tức. Một toán hộ tống đón anh trên sân ga, gồm một cán bộ của Bộ Dân ủy nội vụ đi cùng hai sĩ quan an ninh.
Bên ngoài sân ga, một chiếc ô tô đang đợi sẵn. M. Vorontsov nhanh chóng được đưa vào ghế sau ngồi giữa hai sĩ quan an ninh. Đó cũng là lần đầu tiên M. Vorontsov được thư giãn kể từ khi rời Berlin. Chiếc va-li của anh giờ cũng đã thuộc trách nhiệm quản lý của người khác.
Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân, M. Vorontsov được điều động về vùng Viễn Đông và tại đó anh phát triển lên làm Phó tham mưu trưởng Hạm đội Thái Bình Dương. Năm 1939, anh được điều chuyển tới Berlin làm Tùy viên hải quân Liên Xô.
Chiếc xe dừng lại bên ngoài lối vào Điện Kremli. 10 phút sau, M. Vorontsov bước vào văn phòng của nhà lãnh đạo Stalin. Trong số các tài liệu anh đem về từ Berlin, có bản sao một điện tín mà anh được Tùy viên hải quân Thụy Điển tại Berlin đưa cho. Điện tín có nội dung: "Đề nghị chính thức của Berlin đề cập tới tuyến di chuyển của tàu chiến và máy bay Thụy Điển ở biển Bantích sau ngày 22-6-1941, để tránh va chạm trong trường hợp có chiến tranh với Liên Xô".
Thời đó, công tác tình báo nước ngoài của Liên Xô được thực hiện bởi mạng lưới các điệp viên nằm vùng. Hoạt động tình báo Xô-viết được tiến hành cả kênh hợp pháp thông qua các điệp viên có hộ chiếu Xô-viết, làm nhiệm vụ "kép" tại các cơ quan đại diện của Liên Xô ở nước ngoài với vỏ bọc là một quan chức ngoại giao, lái xe hay chuyên viên kỹ thuật, lẫn bất hợp pháp qua các điệp viên dùng giấy tờ giả.
Mỗi thành viên của một mạng lưới điệp viên nằm vùng đều có nhiệm vụ riêng biệt. Một điệp viên chuyên tuyển dụng và điều hành các điệp viên địa phương, một điệp viên khác chịu trách nhiệm về điện đài, một người nữa làm liên lạc viên chuyển tài liệu và một người điều phối toàn bộ các hoạt động của nhóm.
Sau khi Hitler lên nắm quyền ở Đức, Liên bang Xô-viết đã thấy rõ quốc gia nào là mối đe dọa lớn nhất với mình. Do đó, nhiều điệp viên Xô-viết được đưa vào Đức để thu thập thông tin về tiềm năng quân sự và mưu đồ của phát-xít Đức. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra năm 1939, số mạng lưới điệp viên nằm vùng của Liên Xô ở Đức tăng tới 50%. Những mạng lưới tương tự cũng hoạt động ở Bỉ, Anh, Hà Lan, Thụy Sĩ, Pháp, Nhật, Bulgari và Nam Tư.
Tháng 6-1941, cơ quan Tình báo Quân sự Trung ương của Liên Xô đã tuyển dụng được 914 người ở nước ngoài, 316 trong số đó làm cộng tác viên với các mạng lưới điệp viên hợp pháp, còn 598 người là hoạt động bất hợp pháp. Thậm chí, ngay cả nhà lãnh đạo Stalin cũng chỉ biết phần lớn những người này qua mật danh. Bản thân ông cũng có quá đủ kinh nghiệm về hoạt động bí mật để hiểu rằng, tên của một điệp viên bị đề cập càng nhiều lần thì anh ta càng gặp nhiều nguy hiểm.
Mất liên lạc
Kể từ mùa thu năm 1940, ngày càng có nhiều báo cáo cảnh báo về việc phát-xít Đức tập trung quân dọc biên giới với Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết nỗ lực tìm câu trả lời cho câu hỏi: Liệu Hitler có tấn công và nếu có thì khi nào?
Các báo cáo tới tấp cung cấp những thời điểm khác nhau về cuộc xâm lược Liên Xô của phát-xít Đức. Ban đầu họ cho rằng, nó sẽ diễn ra vào tháng 3 hay tháng 4-1941. Sau đó có báo cáo nói rằng, cuộc tấn công được hoãn đến mùa hè và tùy thuộc vào việc nước Anh có đầu hàng hay không. Rồi lại có tin mới toanh rằng sẽ hoãn đến năm 1942.
Tình hình còn phức tạp thêm bởi trên thực tế, người duy nhất biết chính xác dự tính của Hitler chỉ có... chính Hitler. Ông ta chỉ ký lệnh thông qua chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô ngày 10-6-1941, 12 ngày trước giờ thực hiện. Đến ngày 18-6, Mátxcơva mới bắt đầu nhận được báo cáo từ điệp viên K: "Các đơn vị lục quân Đức đang chuẩn bị chuyện gì đó rất lớn. Rõ ràng không phải chuyện vài tháng hay vài tuần mà là vài ngày nữa thôi".
Nhưng dù có cảnh báo, tình báo Xô-viết vẫn không thể khẳng định chính xác điều gì, kể cả bức điện tín mà M.Vorontsov mang về Mát-xcơ-va. Chiến dịch Barbarossa đã bắt đầu, nhưng Liên Xô vẫn chưa thực sự chuẩn bị sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của chiến tranh, mọi mạng lưới điệp viên hợp pháp của Liên Xô tại Đức, các đồng minh của Đức và tại những nước bị phe Trục chiếm đóng đều bị chấm dứt hoạt động và tất cả nhân viên đại sứ quán đều bị trục xuất về Liên Xô. Tình báo quân sự Xô-viết mất liên lạc với các điệp viên ở 11 nước châu Âu. Số điệp viên còn lại không ít, nhưng nếu không thể liên hệ được với Mátxcơva, xem ra họ chẳng còn hữu ích là mấy.
Các điệp viên Liên Xô hoạt động ở nước ngoài không có đủ điện đài hay điện đài viên giỏi. Máy điện đài của họ cũng rất cồng kềnh và thiếu tin cậy, thậm chí thiếu cả ắc quy. Tầm hoạt động của các điện đài này là không quá 1000km, tức là tín hiệu chỉ truyền đến được miền Tây Liên Xô và không đủ mạnh để truyền tới Mátxcơva, chứ đừng nói tới Kuibyshev, nơi Tổng hành dinh của Cơ quan tình báo quân sự trung ương được sơ tán tới.
Hơn nữa, mật mã và bảng mã khóa tình báo Xô-viết sử dụng hồi đầu chiến tranh rất phức tạp và khó dùng. Ngay cả những tin nhắn đơn giản nhất cũng phải mất khá nhiều thời gian để mã hóa và giải mã. Tín hiệu chuyển đi cũng dễ bị đối phương bắt được. Phản gián Đức tuần tiễu khắp thành phố với thiết bị dò hướng để định vị điện đài. Ngay khi xác định được nơi đặt điện đài, lực lượng mật vụ sẽ bao vây và xông vào bắt điện đài viên.
Và thế là phản gián Đức đã khiến các điệp viên Xô-viết gần như không thể liên lạc trực tiếp với Mátxcơva. Nhưng tình thế đã dần thay đổi nhờ sự đáp trả kịp thời của tình báo Xô-viết.
(Kỳ 2: Những người đảo ngược cuộc chơi)
Theo Đặng Lâm Vũ
Quân đội Nhân dân
Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un sẽ không đến Nga Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un sẽ không tới Nga dự lễ kỷ niệm ngày Hồng quân Liên Xô chiến thắng phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, điện Kremlin ngày 30/4 thông báo. Lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. (Ảnh: KCNA) "Ông ấy đã quyết định không rời khỏi Bình Nhưỡng", NBC dẫn lời phát ngôn viên của điện...