Kỳ 2: “Chủ quyền lịch sử” không phải để chứng minh chủ quyền
Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV).
Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để phản bác quan điểm mà phía Trung Quốc đưa ra, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Trước hết, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV).
Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi thực hư như thế nào? Giá trị của chúng đến đâu? Trao đổi với phóng viên Báo QĐND, ông Trục cho biết: Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á cùng đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, mà không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền và việc người dân Trung Quốc “đến hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) để đi biển và sản xuất”. Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung về các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý. Vì vậy, việc Trung Quốc qua đó mà viện dẫn, nói quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc là không có cơ sở.
Tiến sĩ Mai Hồng giải thích cho người xem nội dung chữ Hán cổ trên bản đồ của Trung Quốc năm 1904 mà ông đã hiến tặng Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Ảnh: TTO
Tiến sĩ Trục chỉ rõ các tư liệu đã chứng minh sự sai trái, ngộ nhận từ phía Trung Quốc như: Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hàng hải trong Biển Đông nhưng rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng, đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo cứu địa lý, sách hàng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Để làm rõ hơn vấn đề này, ông Trục chỉ ra một nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tất cả đều rất thống nhất với nhau.
Video đang HOT
Chỉ rõ sự sai trái, biện minh vô lý của ông Dương Trạch Vỹ, Tiến sĩ Trục cho biết thêm: Trong các tài liệu, tư liệu mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này, có đề cập việc dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng “triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình”, “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa”. “Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào”, ông Trục khẳng định.
Ông Trục cũng chỉ rõ sai trái của chính quyền Trung Quốc hiện thời, đó là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở “ Nam Hải” để nói rằng “quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên”.
Về điều này, ông Trục lý giải: Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”. Dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Bắc Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là “đo đạc toàn quốc” như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là “đo đạc bốn biển”, cho nên mới có cả một số nơi ngoài “cương vực Trung Quốc” như Cao Ly (nay là Triều Tiên), Thiết Lặc (nay thuộc vùng Xi-bê-ri của Nga), Bắc Hải (nay là vùng biển phía bắc Xi-bê-ri), Nam Hải tức Biển Đông. Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ “cương vực” Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quảng Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hàng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ gọi là địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí – đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận”.
Xem xét tất cả các tư liệu, tài liệu trên đã thấy rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
“Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu”, Tiến sĩ Trục viện dẫn các ví dụ thực tế để chứng minh rõ những đòi hỏi phi lý, sai trái của Trung Quốc.
Theo Nguyễn Hòa
Báo Quân đội nhân dân
Khi Thủ tướng Nhật chỉ đích danh chuyện biển Đông
Theo giới phân tích, lời tuyên bố của lãnh đạo một nước vốn theo đường lối ôn hòa như Nhật Bản có thể được coi là "lời tuyên chiến đối với những hành động chính trị, ngoại giao cường quyền".
Đúng như cam kết với báo chí trước thềm Đối thoại Shangri La (Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, trong bài phát biểu của mình tại Hội nghị, đã công bố Học thuyết Abe (Abe Doctrine) trong đó có những tuyên bố cứng rắn về an ninh khu vực, đặc biệt là vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN. Abe Doctrine được coi là Tuyên ngôn của Nhật Bản đối với vấn đề an ninh quốc tế trong bối cảnh Trung Quốc liên tục có những hành động đơn phương mang tính khiêu khích nhằm áp đặt chủ quyền của mình đối với khu vực biển Đông - những hành động thậm chí còn đang bị nghi ngờ là nhằm tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực với mục tiêu ám muội.
Từ ám chỉ "mối đe dọa từ Trung Quốc"....
Tuy không nêu đích danh, nhưng những gì ông Abe thể hiện trong Học thuyết Abe (Abe Doctrine) và bài phát biểu tại Shangrila cho thấy sự cảnh giác cao độ và mối lo ngại sâu sắc về những hành động gây hấn gần đây của Trung Quốc và sự ủng hộ mạnh mẽ đối với các nước ASEAN.
Sau khi nhấn mạnh: "Lặp đi lặp lại những việc đã rồi, dùng sức mạnh để biến đổi hiện trạng theo hướng có lợi cho mình là hành vi đáng lên án", Thủ tướng Abe chính thức tuyên bố: "Nhật Bản không ngần ngại và luôn sẵn sàng hỗ trợ, viện trợ các nước ASEAN bao gồm Việt Nam và Philipin trong những nỗ lực nhằm bảo đảm an toàn và tự do hàng hải, hàng không".
Theo giới phân tích, lời tuyên bố này của lãnh đạo một nước vốn theo đường lối ôn hòa như Nhật Bản có thể được coi là "lời tuyên chiến đối với những hành động chính trị, ngoại giao cường quyền".
Bởi, đây mới là lần đầu tiên Thủ tướng Nhật Bản tham dự Đối thoại Shangri La và ngay trong lần đầu tiên này đã thể hiện thái độ không khoan nhượng đối với "chính sách nước lớn". Ông Abe còn chỉ ra: "Hiện nay, nhiều của cải, vật chất, tiền bạc, trí tuệ tại khu vực châu Á được dùng để mua bán vũ khí, tăng cường quân bị. Mối đe dọa từ vũ khí giết người hàng loạt và việc sử dụng vũ lực nhằm thay đổi nguyên trạng vẫn đang tồn tại" và lên án: "Chính những hành động này và những nước có hành động này đang gây bất ổn cho khu vực và toàn thế giới".
... đến chỉ đích danh trong vấn đề Biển Đông...
Liên quan đến tình hình căng thẳng leo thang tại khu vực biển Đông do những hành động sai trái mang tính khiêu khích bạo lực và vô nhân đạo của Trung Quốc, Thủ tướng Abe không ngần ngại chỉ trích: "Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực và đe dọa trong những tranh chấp chủ quyền là hành động không thể biện hộ. Không thể dựa vào bạo lực vào áp bức mà phải dùng những biện pháp hòa bình để giải quyết xung đột". Ông Abe cũng thẳng thắn yêu cầu Trung Quốc phải giải quyết vấn đề theo luật pháp quốc tế và đề nghị: "ASEAN và Trung Quốc cần soạn thảo và ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) càng sớm càng tốt".
Cũng trong phát biểu này, ông Abe còn đưa ra hai đề nghị được đa số các nước ủng hộ nhưng lại nhận được sự không mấy mặn mà từ phía Trung Quốc.
Một là, để tránh những sự cố ngoài ý muốn giữa Nhật Bản và Trung Quốc, hai bên cần tiến hành bàn bạc về việc thiết lập một cơ chế liên lạc hàng hải và hàng không. Hai là, ASEAN, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc... cần nâng cao vai trò, quyền hạn của cơ chế Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), hạn chế tăng cường quân bị, công khai ngân sách quân sự. Đối với những đề nghị này, không cần bình luận thêm cũng có thể thấy rõ Trung Quốc là nước đầu tiên bị ..."dị ứng"
... và trọng lượng của ngôn từ
Ông Abe đã thể hiện rằng mình không chỉ nói suông. Để tăng sức nặng của ngôn từ, ông nhấn mạnh: "Trong bối cảnh hiện nay, không một nước nào có thể đơn độc mà gìn giữ được hòa bình. Nhật Bản cũng không là ngoại lệ". Đây được coi là sự dẫn giải cho những nỗ lực hiện nay của Nhật Bản trong việc sửa đổi Điều 9 Hiến pháp của nước này theo hướng "cho phép quyền tự vệ tập thể" hay nói cách khác là quyền được tham gia chiến tranh mà bước đầu tiên đã được tiến hành từ tháng 1 năm 2007 khi nước này nâng cấp Cục Phòng vệ thành Bộ Phòng vệ.
Nếu việc sửa đổi thành công, Nhật Bản sẽ có quyền được tham gia các hoạt động quân sự quốc tế như hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc (PKO), hay thậm chí giúp đỡ về sức mạnh quân sự cho các nước đồng minh trong những trường hợp cần thiết. Theo giới phân tích, điều này sẽ thay đổi đáng kể cán cân quân sự trong khu vực và tạo một đối trọng đối với Trung Quốc - nước đang liên tục tăng ngân sách quân sự ở mức hai con số trong nhiều năm qua.
Chưa biết trong tương lai Thủ tướng Abe và chính phủ của ông sẽ thực hiện những tuyên bố này đến đâu, nhưng ít nhất đến thời điểm hiện tại những tuyên bố này cũng tạo ra những hiệu ứng tích cực nhất định và trở thành một trong những điểm tựa tại Đối thoại Shangrila. Đặc biệt Abe Doctrine còn được đánh giá là "dây cương cho cỗ xe ngựa đang hùng hổ xông tới từ phương bắc".
Những nội dung chính của Học thuyết Abe (ABE DOCTRINE) Abe Doctrine là Nguyên tắc gồm 5 điểm liên quan tới việc tăng cường quan hệ ngoại giao, an ninh quốc phòng giữa Nhật Bản và các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đong Nam Á (ASEAN) được Thủ tướng Shinzo Abe đưa ra vào tháng 1 năm 2013 nhân chuyến thăm Indonesia. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Thủ tướng Abe công bố Abe Doctrine tại một diễn đàn quốc tế lớn. Abe Doctrine bao gồm những điểm chính sau: 1- Nỗ lực cùng ASEAN bảo vệ, phát huy những giá trị chung như tự do, dân chủ, quyền con người cơ bản... 2- Nhật Bản cùng các nước ASEAN hợp tác bảo vệ biển và tài nguyên biển, không cho phép sử dụng vũ lực để thay đổi hiện trạng mà phải dựa vào luật pháp để quản lý, bảo vệ. Hoan nghênh chính sách "coi trọng châu Á" của Mỹ 3-Thông qua nhiều kênh hợp tác kinh tế để thúc đẩy hơn đầu tư, thương mại hướng tới sự thịnh vượng chung 4- Chung sức gìn giữ nền văn hóa truyền thống đa dạng của châu Á 5- Tăng cường giao lưu thế hệ trẻ, hướng tới tương lai, làm sâu sắc thêm sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc
Theo Tuấn Nhật
Vietnamnet
Tàu Việt Nam chỉ còn cách giàn khoan 2,8 hải lý Tàu kiểm ngư của ta đã tiếp cận được giàn khoan ở khoảng cách 2,8 hải lý bất chấp sự ngăn cản quyết liệt của phía Trung Quốc. Tối 30/5, theo tin tức mới nhất từ Cục Kiểm ngư, trong ngày hôm nay, lực lượng kiểm ngư đã tiếp cận được giàn khoan ở khoảng cách 2,8 hải lý để thực hiện nhiệm...