KIT thử nhanh dư lượng BVTV: Không có giá trị pháp lý và cơ sở khoa học
Việc dùng các KIT thử nhanh dựa trên sự ức chế men ChE không có giá trị pháp lý và không có cơ sở khoa học để khẳng định sự an toàn hay nguy cơ nhiễm độc thuốc BVTV trong nông sản, con người…
* Đề nghị chấm dứt việc dùng các KIT thử nhanh để đánh giá và công bố sự tồn dư thuốc BVTV trong nông sản và môi trường
Dư luận đang rất xôn xao về “nguy cơ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật trong máu” đăng tải trên nhiều tờ báo và phương tiện truyền thông, như: “Báo động: Xét nghiệm 67 người ở Hà Nội thì 31 người tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong máu” (bằng cách tách huyết tương từ máu người, nhỏ vào chất chỉ thị màu để kiểm tra nồng độ thuốc BVTV trong máu, báo Sức khỏe Đời sống, ngày 27/7/2018); “Báo động đỏ khi làng quê không còn là nơi trong lành, an toàn”: đã xác định 138 trường hợp có nguy cơ và 43 trường hợp không an toàn, tương ứng 56,8% và 17,7% trong tổng số 243 người tham gia (bằng cách đánh giá nồng độ men Cholinesterase (ChE) trong huyết tương bằng giấy phản ứng, báo Nông nghiệp Việt Nam, ngày 1/8/2018), cùng nhiều báo, đài khác đã đăng tải thông tin này. Đơn vị thực hiện khảo sát được nói đều là Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường thuộc Bộ Y tế. Các thông tin này được lan truyền chóng mặt qua các báo điện tử những ngày gần đây làm không ít người dân và cả cán bộ hoang mang.
TS. Nguyễn Trường Thành, Nguyên Trưởng bộ môn Thuốc, Cỏ dại và Môi trường, Viện Bảo vệ Thực vật.
Là nguyên Trưởng Bộ môn Thuốc, Cỏ dại và Môi trường, Viện Bảo vệ Thực vật và trực tiếp phụ trách Phòng phân tích dư lượng thuốc BVTV (2000 – 2012), chủ trì đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Bộ: “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp phân tích nhanh (Enzim, Elisa) và phân tích đa dư lượng thuốc BVTV trong nông sản, phục vụ kiểm soát nông sản an toàn”, 2003 – 2005), tôi thấy cần phải có ý kiến với mục tiêu góp phần để chúng ta hiểu đúng thực trạng tồn dư thuốc BVTV hơn.
Tại sao nhiều người không tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV mà lại có nguy cơ bị nhiễm độc máu như vậy? Tại sao quá nhiều người bị suy giảm hoạt độ men ChE huyết tương đến thế do thuốc BVTV? Rồi cả các ý kiến suy diễn cho rằng con người có thể nhiễm độc do sờ, ngửi rau, hoa!
Trong khi đó, các thuốc ảnh hưởng đến men ChE là Lân hữu cơ và Carbamate lại là các thuốc nhanh bị phân hủy trong môi trường cũng như cơ thể người và vật nuôi và hiện có tỷ trọng nhỏ khoảng 10% tổng lượng thuốc được sử dụng mà thôi.
1. Không phải thuốc BVTV là độc hại ở mọi hàm lượng
Trước hết cần thống nhất về cách nhìn khách quan về thuốc BVTV. Do đòi hỏi của xã hội và sự phát triển của khoa học, con người phát minh ra và sử dụng ngày càng nhiều chủng loại hóa chất chữa bệnh cho người, cho gia súc và bảo vệ cây trồng.
Cũng như thuốc y tế và thuốc thú y, thuốc BVTV phải được coi là các phát minh quan trọng của con người và là công cụ không thể thiếu được cho đời sống và sản xuất. Và chúng chỉ được coi là độc hại khi dư lượng của chúng trong nông sản, môi trường (kể cả trong cơ thể người và vật nuôi) đạt một mức độ nào đó đủ gây hại mà thôi.
Chúng ta đã loại bỏ các thuốc có độ độc cấp tính nhóm 1 (trừ thuốc trừ chuột), các thuốc có độ độc mãn tính nguy hiểm. Nhưng nhìn chung, thuốc BVTV vẫn luôn được coi là nhóm chất độc hại cần được quản lý, sử dụng thận trọng. Bản thân thuốc BVTV không có tội. Vấn đề là con người sử dụng chúng ra sao để vừa kiểm soát được dịch hại, vừa an toàn cho con người, vật nuôi và môi trường.
Theo TS. Thành, việc sử dụng các bộ KIT thử nhanh không có giá trị pháp lý cũng như không có giá trị cơ sở khoa học để khẳng định còn tồn dư thuốc BVTV hay không?. Ảnh: Tincay.com
2. Về kiểm tra tồn dư thuốc BVTV trong nông sản và môi trường
Ngày nay chúng ta đã có nhiều công cụ hiện đại để kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trong nông sản và môi trường như hệ thống các máy sắc ký (GC, LC), sắc ký khối phổ (GCMS, LCMS)… có thể xác định nồng độ chất độc đến một phần tỷ (ppb). Song do để kiểm tra nhanh và ít tốn kém, các phương pháp đánh giá nhanh (KIT thử nhanh dựa trên khả năng ức chế men ChE của thuốc Lân hữu cơ và Carbamate, KIT ELISA dựa trên phản ứng miễn dịch đặc hiệu với một hoặc một nhóm thuốc đặc thù…) cũng được hình thành và thử nghiệm trong những năm qua.
Nhóm các phương pháp sử dụng KIT ELISA (đánh giá hấp phụ miễn dịch liên kết men), dựa trên phản ứng kháng nguyên – kháng thể đặc hiệu, thường được dùng để kiểm tra sự có mặt hay không của thuốc cực độc, thuốc cấm, chất gây ung thư với độ nhậy khá cao song chỉ là định tính (có mặt hay không) và chỉ cho một hoặc rất ít thuốc cùng nhóm mà thôi.
Nhóm các phương pháp đánh giá nhanh dư lượng thuốc dựa trên khả năng ức chế men ChE của các thuốc BVTV có khả năng ức chế men này. Đó là các thuốc Lân hữu cơ và Carbamate. Cholinesterase là một men xúc tác phản ứng thủy phân chất dẫn truyền thần kinh Acetylcholin thành cholin và acid acetic (một phản ứng tối cần thiết để các neuron thần kinh phục hồi trở lại trạng thái nghỉ ngơi sau khi hoạt hóa).
Video đang HOT
Phương pháp của Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường thuộc nhóm này. Kết quả nghiên cứu của Viện Bảo vệ Thực vật [1] đã cho kết luận về phương pháp đánh giá nhanh dựa trên Enzim ChE như sau:
Ưu điểm của các phương pháp này là chi phí thấp, thời gian nhanh, thao tác đơn giản. Nhược điểm của các phương pháp này cũng không ít như:
- Chủ yếu là định tính chỉ cho hai nhóm thuốc Lân hữu cơ và Carbamate theo kiểu có mặt và có mặt ở mức nguy cơ cao hơn. Hiện các thuốc thuộc hai nhóm này còn rất ít trong các thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam. Do vậy, phương pháp này để lọt đa số các thuốc BVTV được sử dụng hiện nay. Hơn nữa, các thuốc Lân hữu cơ và Carbamate có đặc điểm nhanh bị phân hủy trong môi trường, nhanh bị đào thải ra khỏi cơ thể người và động vật. Việc ức chế men ChE trong người với thuốc Carbamate chỉ trong vài giờ, với thuốc Lân hữu cơ chỉ trong vài ngày đến vài tuần [2].
Rất nhiều cơ quan, đơn vị đang dựa vào kết quả test của các bộ KIT nhanh để làm cơ sở đánh giá mức độ an toàn của nông sản. Ảnh minh họa.
- Dù chủ yếu là định tính song phương pháp dựa vào việc ức chế men ChE cũng rất khác biệt giữa các thuốc về độ nhậy khi thử nghiệm. Bản chất của vấn đề là men ChE được sử dụng là của một động vật nào đó (như từ đầu ruồi, đầu ong, huyết thanh ngựa chửa…) không phải bị ức chế như nhau với từng loại thuốc thử. Thuốc nào càng độc với các động vật trên thì càng nhậy với việc ức chế men ChE của chúng và ngược lại.
Theo kết quả thử nghiệm tại Việt Nam và các nước, phản ứng dương tính (qua chất chỉ thị màu) của các thuốc này khá khác nhau, thậm chí khác nhau rất lớn, dù đó là KIT của Đài Loan, Thái Lan, Viện BVTV (Việt Nam). Các KIT này cho phản ứng dương tính với một số thuốc Lân hữu cơ ở hàm lượng quá cao (có loại đến cả trăm lần) so với mức dư lượng tối đa cho phép (tức là sẽ cho nhiều kết quả âm sai).
Trong khi đó các KIT phản ứng quá nhậy với thuốc Lân hữu cơ khác, thấy báo dương tính ngay cả ở hàm lượng thấp hàng chục, hàng trăm lần so với mức dư lượng cho phép (nên dễ cho sai số lớn với kết quả dương sai).
Như vậy, các KIT thử nhanh dựa trên việc ức chế men ChE không phát hiện được các thuốc kể cả nhóm Lân hữu cơ và Carbamate khi chúng không ức chế tốt ChE song lại báo động không ít thuốc thực ra ở mức rất an toàn do chúng quá nhậy trong ức chế ChE được sử dụng (tức là cho kết quả cả âm sai và dương sai).
Kết quả của việc đánh giá nhanh này không có ý nghĩa pháp lý và cũng chỉ nói lên sự có mặt (mà không đầy đủ các thuốc thuộc nhóm Lân hữu cơ và Carbamate theo nghĩa định tính). Nếu dùng số liệu này như các bài báo đã nêu mà đánh giá nguy cơ sẽ là không có cơ sở khoa học.
Năm 2010, Hội đồng Khoa học của Cục BVTV do Cục trưởng Nguyễn Quang Minh chủ trì, với sự có mặt của các ông Viện trưởng Viện BVTV, Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hà Nội và chúng tôi đã không chấp nhận việc “sử dụng KIT Enzim để đánh giá sự an toàn của nông sản” do một đơn vị đề xuất (cũng vì lý do tương tự như trên). Thực ra, các phương pháp này được sử dụng và tạm chấp nhận giai đoạn trước đây khi thuốc Lân hữu cơ và Carbamate được sử dụng chiếm tỷ trọng lớn trong các thuốc BVTV và các thiết bị phân tích hiện đại còn quá hiếm.
Hiện nay với phương pháp phân tích đa dư lượng (MRA) dựa trên hệ thống sắc ký và sắc ký khối phổ chúng ta có thể kiểm soát sự có mặt (định tính) và định lượng với mức chính xác của nhiều hoạt chất BVTV trong nông sản, môi trường, kể cả trong máu người. Những con số này mang ý nghĩa pháp lý mà mọi phương pháp phân tích nhanh không thể thay thế được [1].
3. Về việc đánh giá hoạt độ của men ChE trong huyết tương bằng giấy phản ứng
Theo tài liệu trong và ngoài nước, hoạt độ của men ChE trong con người (trong đó có men ChE huyết thanh – PchE) thay đổi rất nhiều trong mỗi con người, giữa các cá nhân, giữa kết quả phân tích các phòng phân tích, giữa các phương pháp thử nghiệm [2]. Hoạt độ bình thường của men ChE trong con người nằm trong khoảng rất rộng 5.300 – 12.900 U/L [3]. ChE trong con người bị ức chế do nhiễm độc các thuốc Lân hữu cơ và Carbamate song chúng được hồi phục sau vài giờ đến vài tuần.
Do đó, theo Chương trình đánh giá ảnh hưởng của thuốc BVTV quốc gia do 4 trường đại học của Mỹ hợp tác, tốt nhất là nên lập được hoạt độ của ChE ban đầu trước khi phơi nhiễm các thuốc BVTV hoặc trị số gần nhất mới có thể dễ xem xét ảnh hưởng của thuốc khi so sánh chúng với nhau.
Việc xác định hoạt độ của ChE huyết tương tức thời để đánh giá ảnh hưởng của thuốc BVTV đến men này là không hợp lý. Chỉ nên giám sát hoạt độ của men ChE cho những người trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thuốc BVTV (phơi nhiễm ít nhất 30 giờ trong vòng một tháng) để đánh giá sự ngộ độc của thuốc Lân hữu cơ và Carbamate mà thôi [2].
Hơn nữa, các thuốc BVTV nhóm Lân và Carbamate cũng chỉ là một trong hơn 10 nhân tố làm giảm ChE của con người. Những nhân tố sau cũng làm giảm hoặc thay đổi hoạt độ của men ChE huyết tương như: nhiễm trùng cấp, suy dinh dưỡng mãn, viêm gan mãn, viêm da cơ, bệnh thận mãn, urê máu cao, sử dụng các thuốc dãn cơ, atropin, estrogen, thuốc ngừa thai, vitamin K… [3]. Như vậy không có cơ sở khoa học khi dùng phép thử nhanh để đánh giá được sự suy giảm hoạt độ men ChE huyết tương của người do thuốc BVTV ở mức nguy cơ hoặc không an toàn được như các bài báo đã nêu.
Kết luận
1. Việc dùng các KIT thử nhanh dựa trên sự ức chế men ChE không có giá trị pháp lý và không có cơ sở khoa học để khẳng định sự an toàn hay nguy cơ nhiễm độc thuốc BVTV trong nông sản, con người và môi trường. Nó chỉ định tính (song có không ít kết quả dương sai và âm sai) và chỉ nên dùng để tham khảo, tuyệt đối không nên thông báo khi chưa có cơ sở khoa học và thực tiễn làm ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý xã hội, người tiêu dùng, người sản xuất và kinh doanh. Đề nghị chấm dứt việc dùng các KIT thử nhanh hiện đang quảng cáo không ít ở trong nước để đánh giá và công bố về sự tồn dư thuốc BVTV trong nông sản và môi trường.
2. Việc đánh giá suy giảm hoạt độ men ChE huyết tương tức thời và kết luận mức độ ngộ độc thuốc BVTV là không có cơ sở khoa học do trị số này biến động rất nhiều, thuốc có ảnh hưởng (nhóm Lân hữu cơ và Carbamate) lại nhanh bị đào thải trong cơ thể người và nó chỉ là một trong nhiều nguyên nhân làm suy giảm hoặc thay đổi hoạt độ của men ChE huyết tương của người.
3. Những thông báo về đánh giá mức độ nhiễm độc và tồn dư thuốc BVTV trong cơ thể người là vô cùng nhạy cảm và đòi hỏi phải có các đánh giá chính xác, điều mà ngày nay chúng ta hoàn toàn có thể làm được bằng hệ thống máy phân tích công cụ chính xác ở trong nước. Nên chăng cần có các hội đồng với các chuyên gia có kinh nghiệm để thẩm định các kết quả quan trọng này trước khi đưa ra đại chúng. Và nếu không thỏa đáng, các thông tin không có độ tin cậy cần được đính chính ngay để không để lại tác động tiêu cực của nó.
Tài liệu tham khảo chính:
1. Nguyễn Trường Thành và các tác giả (2005). Báo cáo kết quả thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp phân tích nhanh (Enzim, Elisa) và phân tích đa dư lượng thuốc BVTV trong nông sản, phục vụ kiểm soát nông sản an toàn”. Viện Bảo vệ Thực vật, 2005.
2. Cholinesterase Inhibition (1993). A Pesticide Information Project of Cooperative Extension Offices of Cornell University, Michigan State University, Oregon State University, and University of California at Davis. Major support and funding was provided by the USDA/Extension Service/National Agricultural Pesticide Impact Assessment Program – 9/1993
Theo TS NGUYỄN TRƯỜNG THÀNH (Nguyên Trưởng Bộ môn Thuốc, Cỏ dại và Môi trường, Viện Bảo vệ Thực vật) (NNVN)
Theo Danviet
Khâm phục những huyện nhiều năm lãng quên thuốc bảo vệ thực vật
Nơi nào tràn ngập thuốc sâu, nơi nào đau đớn vì bệnh tật, nơi nào hậu họa môi trường hãy trông về những huyện nhiều năm canh tác thuận theo tự nhiên, hầu như hạn chế tối đa dùng thuốc BVTV...
Nhiều thứ ngược với văn minh lúa nước
Anh Nguyễn Văn Quân - Trạm trưởng Trạm BVTV huyện Mỹ Đức (Hà Nội) cho tôi hay địa phương có 7.500 ha lúa, khoảng 80% áp dụng SRI (hệ thống thâm canh lúa cải tiến), tức hơn 6.000 ha trong đó hơn 2.000 ha áp dụng toàn diện còn hơn 4.000 ha áp dụng một phần. Điều đặc biệt là có những vụ, có những xã không hề dùng một tí thuốc sâu, thuốc bệnh nào như Hồng Sơn 3 năm liền không dùng, như HTX Hợp Tiến nhiều vụ không dùng, như HTX Đại Nghĩa nhiều vụ không dùng.
Thay bằng phun thuốc, chị Anh dùng liềm để cắt cỏ
Vậy đâu là bí quyết? Thứ nhất là cơ cấu thời vụ. Toàn huyện gieo mạ trong tuần và cấy trong tuần, thường vụ xuân gieo quanh 20-25/1, cấy trong khung từ 16-25/2, vụ mùa gieo 1-8/6 cấy xong trong tháng 6. Thời vụ nhanh và chính xác giúp lệch pha với sâu bệnh. Hơn thế, Trạm BVTV cho điều tra phát dục của các lứa sâu để dự tính, dự báo cho toàn dân biết mà phòng tránh. Nếu thực tế ngoài ruộng đến ngưỡng sâu bệnh, cán bộ BVTV sẽ cắm nêu (que gắn mảnh giấy ghi rõ gia đình ông A, bà B phải phun thuốc, phun thuốc gì).
Thứ hai là cấy thưa thoáng, chỉ sử dụng 4-5 lạng thóc giống/sào, giảm khoảng 60% so với trước đây. Thứ ba là tập huấn nhuyễn cho nông dân liên tục trong nhiều năm với hơn 300 lớp IPM (quản lý dịch hại tổng hợp), với vài ngàn nông dân nòng cốt được đưa về cơ sở để dạy cho bà con cách nhìn vào màu sắc lá lúa mà bón phân cân đối.
Điều quan trọng không thể thiếu là việc nước vào, nước ra trái ngược với cả nền văn minh lúa nước đã tồn tại mấy ngàn năm luôn luôn phải có nước. Việc chỉ đạo rút nước và đưa nước vào ruộng đều do Phó Chủ tịch huyện phụ trách khối thực hiện. Hễ có lệnh rút nước thì mạch nước ngầm được rút ngay, các xã không rút cũng phải rút. Huyện có hệ thống tưới tiêu hoàn chỉnh với những kênh chính, kênh phụ, chúng sâu hơn mặt ruộng nên rút nước dưới mạch nước ngầm thì lập tức nước trên mặt ruộng sẽ bị rút theo.
Một chu kỳ canh tác lúa rút nước làm hai lần. Lần một sau khi lúa bén rễ hồi xanh bón phân thúc lần thứ nhất chờ đẻ nhánh, rút nước cho mặt ruộng nứt nẻ 18-20 ngày tới lúc lúa phân hóa đòng lại đưa nước vào để bón thúc tiếp. Lần hai khi lúa chín sáp tiếp tục rút nước cho đến chín với thời gian khoảng 15-20 ngày. Nhờ rút nước, mặt ruộng thông thoáng, nhiều ô xi, lúa phát triển tốt, chống đổ, đỡ sâu bệnh.
Đi Mỹ để kể chuyện về cây lúa
Tôi về HTX Đại Nghĩa, một trong những cái nôi đầu tiên của SRI. Vụ xuân 2006 sau khi thử nghiệm SRI ở một xã khác không thành công huyện mới đưa mô hình về đây và vấp ngay phải sự phản đối kịch liệt.
Đầu tiên là chuyện rút nước, nhiều gia đình không kịp làm cỏ sục bùn để cỏ mọc lan tràn nên xót ruột, khi gặp ông Trạm trưởng Trạm BVTV huyện cùng các ông Chi cục trưởng, Chi cục phó BVTV thành phố xuống thì cứ xúm lại chửi: "Từ thời thượng cổ đến nay chưa từng thấy chuyện phơi ruộng nứt nẻ như thế này bao giờ, ngớ ngẩn!". Giải thích sao cũng không lại đành phải gọi cả Chủ nhiệm HTX: "Ông ra mà xem dân ông diễn kịch, cứ bịt kín mặt bằng khẩu trang rồi chửi cán bộ như tát nước ấy".
Lão nông Lê Ngọc Thạch (bên phải) từng được đi Mỹ để giảng về cách trồng lúa không cần thuốc trừ sâu.
Còn ông Lê Ngọc Thạch - Chủ nhiệm HTX Đại Nghĩa hồi ấy bảo lúc đầu tính làm thử 4 ha mô hình nhưng chẳng hộ nào muốn tham gia nên phải cam kết đền nếu năng suất thấp hơn bình thường. Được mùa, vụ xuân 2007 mở rộng 20 ha, vụ mùa mở rộng 50 ha. Rồi những năm tiếp theo, ngoài diện tích của mô hình bà con tự làm kín gần 90% diện tích (160 ha/180 ha canh tác), không phải cam kết gì nữa.
Chất "gây nghiện" cho người nông dân là năng suất của lúa SRI cao hơn 10-15%, hầu như không phải phun thuốc, sức khỏe, môi trường cũng như hiệu quả kinh tế gia tăng rõ rệt. Mấy năm sau, SRI được Bộ NN-PTNT chính thức công nhận là tiến bộ kỹ thuật mới.
Ông Thạch thủng thẳng: "Trước đây bà con vẫn phun thuốc đều thì nay 70% không dùng nữa trong đó có nhiều hộ đã không dùng 10 năm. Một số ít vẫn còn phun là bởi ứng dụng SRI sai quy trình như sử dụng giống hay nhiễm sâu bệnh, gieo cấy lệch thời vụ, bón thừa phân đạm, nhận thức về thuốc BVTV kém".
Ông cựu Giám đốc HTX cấy 1 mẫu lúa, hơn 10 năm nay chỉ duy nhất 1 lần sử dụng thuốc BVTV là vụ mùa năm 2015 khi có dịch sâu cuốn lá còn tân Giám đốc HTX Đại Nghĩa, anh Nguyễn Trung Trực cấy 6 sào lúa trên 10 năm nay không hề dùng tí thuốc nào. Nếu như trước đây 10 năm hình ảnh người móc cua hầu như vắng bóng trên đồng đất Đại Nghĩa bởi nạn phun thuốc đã hủy diệt tất cả thì nay cánh đồng trở thành kho thực phẩm của người nông dân với cá, ốc, cua, lươn... Năm 2010 FAO (Tổ chức nông lương Thế giới) tổ chức trao giải thưởng ở Mỹ, ông Lê Ngọc Thạch cũng được mời dự để giới thiệu về SRI ở quê mình, mang lại niềm tự hào cho cây lúa Việt, nông dân Việt.
Tôi lại cùng ông đi thăm lúa. Cả cánh đồng là một bản hợp xướng rộn ràng. Gà đồng kêu toóc toóc, cò trắng kêu ò ò, ếch nhái kêu ộp oạp, châu chấu kêu tanh tách, cá mú kêu ùm oàm. Những loại thiên địch được bảo vệ nên có vô số nhện, bọ rùa và kiến ba khoang. Người dân bảo hễ nhìn thấy mạng nhện chăng trên đồng sau mỗi đêm mưa phùn là yên tâm, không có rầy phá hại. Trước đây phun thuốc sâu cuốn lá thiên địch chết hết sẽ gây cháy rầy nên bà con hay nói vui: "Con sâu "đẻ" ra con rầy".
Tôi gặp chị Lê Thị Anh nhà ở đội 5 đang đi vặt những lá lúa bị sâu cuốn. Gia đình chị cấy 7 sào nhưng 5 năm rồi không dùng thuốc mà năm nào cũng được mùa chỉ trừ vụ mùa 2015, sâu cắn lá rào rào như tằm ăn rỗi, năng suất mỗi sào tụt xuống 50-70kg nhưng vẫn nhất định không phun: "Phun thuốc rất độc, ăn cơm cũng sợ bệnh tật". Trung bình năng suất lúa của chị với Bắc Thơm (giống chất lượng) đạt 1,5 tạ/sào, với lúa lai Nhị ưu (giống năng suất) đạt 1,8-1,9 tạ/sào. Nhờ không phun thuốc mà chi phí đầu vào giảm hẳn, mỗi vụ quy tiền lãi khoảng 4-5 triệu.
Rùng rợn ký ức một thời
Rời Đại Nghĩa tôi xuống Hợp Tiến gặp anh Nguyễn Hà Tuyển - Giám đốc HTX. Anh bảo rằng 10 năm nay khoảng 80% dân quê mình đã lãng quên chuyện phun thuốc, dùng thuốc BVTV. Trước HTX có 15 đội sản xuất thì có 15 tổ BVTV, mỗi tổ 3-5 người chuyên đi phun thuốc. Ngoài tổ phun, dân còn tự tổ chức phun, cứ mịt mù khắp các cánh đồng. Giờ 15 tổ BVTV ấy bị dẹp bỏ hết. Chỉ duy nhất vụ mùa năm 2015 gặp đợt dịch sâu cuốn lá đơn vị mới phải mua hơn 40 bình phun thuốc bằng tay về phát cho dân, dùng 1 lần rồi bỏ đến nay đã ải mục hết. Thế mà năng suất chung vụ xuân vẫn đạt 73-75 tạ/ha, vụ mùa vẫn 60-62 tạ/ha.
Anh Sản chỉ vị trí năm xưa từng để bình thuốc trừ sâu.
Tôi gặp Lý Văn Sản - thành viên kỳ cựu của tổ BVTV của thôn Hạ Quất một thời. Hồi ấy, cao điểm có thời gian anh đi phun thuốc miết cả tháng trên đồng. Tắc bình thì thò tay vào trong mò thông cánh gió, tắc vòi thì ghé mồm thổi phù một cái là xong. Thỉnh thoảng nhọc mệt tổ lại được thôn bồi dưỡng 1 kg đường pha nước chanh mà uống. Mỗi vụ công sá cho các thành viên chỉ là 2-3 tạ thóc.
Từ hồi giải tán tổ anh Sản túc tắc đi phun thuê với giá 10.000-15.000đ/bình. Tính ra hơn 6.000 bình thuốc đã từng trĩu nặng trên hai vai anh. Thế rồi theo thời thế người dân dần bỏ thuốc. Những thành viên của tổ theo thời gian cũng đau ốm liêu xiêu. Riêng bản thân anh Sản vừa bị hẹp van tim vừa bị khó thở đến mức leo cái dốc trước nhà cũng khó khăn. 3-4 năm nay anh chỉ nghỉ ở nhà, cái bình gắn bó một thủa cũng dần bị mục nát, phải vứt bỏ. Thế mà kỳ lạ thay không hề phun thuốc vẫn có thu hoạch đều đều nhờ áp dụng các kỹ thuật của IPM, của SRI.
Theo Dương Đình Tường (NNVN)
Báo động đỏ khi làng quê không còn là nơi trong lành, an toàn Kết quả, 138 trường hợp có nguy cơ và 43 trường hợp không an toàn (56,8% và 17,7%). Đáng chú ý là thuốc không chỉ ảnh hưởng đến người lớn mà còn cả trẻ con thông qua hít thở không khí ô nhiễm, qua nông sản và qua tiếp xúc... Bà ơi, cháu có ra đồng đâu mà nhiễm độc? Trước đợt thử...