Kinh tế Việt Nam tiếp tục có nhiều diễn biến tích cực
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình hình kinh tế – xã hội trong tháng đầu tiên của năm 2019 tiếp tục có những diễn biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, việc điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ kết hợp chặt chẽ. Đặc biệt, thị trường tiền tệ, tỷ giá, ngoại hối ổn định, thanh khoản tốt, mặt bằng lãi suất ổn định.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tình hình kinh tế – xã hội trong tháng 1 năm 2019 tiếp tục có những diễn biến tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định. Tình hình sản xuất kinh doanh các khu vực chủ yếu của nền kinh tế trong tháng diễn biến tích cực, trong đó khu vực dịch vụ diễn ra sôi động trong dịp Tết Dương lịch và cận Tết Nguyên đán.
Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2019 tăng 0,1% so với tháng 12/2018 và tăng 2,56% so với cùng kỳ năm 2018 (cùng kỳ tăng 2,65%). Hầu hết các nhóm hàng hóa, dịch vụ chính đều tăng so với tháng trước , trong đó một số nhóm hàng hóa tăng cao do nhu cầu tiêu dùng chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán, gồm: đồ uống và thuốc lá tăng 0,69% ; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,66% (lương thực tăng 0,52% ; thực phẩm tăng 0,85% ); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,39%.
Riêng hai nhóm có CPI giảm, gồm: Giao thông giảm nhiềm nhất 3,04% do ảnh hưởng của đợt giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 1/1/2019 cùng với việc sử dụng quỹ bình ổn xăng, dầu tại kỳ điều hành ngày 16/1/2019 làm CPI xăng, dầu giảm 6,98% ; bưu chính viễn thông giảm 0,09%.
Ảnh minh họa
Trong khi đó, thị trường tiền tệ, tín dụng tương đối ổn định. Đến cuối năm 2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 11,67%, huy động vốn tăng 11,95%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng khoảng 13,93% so với cuối năm 2017. Mặt bằng lãi suất tiếp tục ổn định . Thanh khoản thị trường diễn ra bình thường, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ kịp thời.
Tỷ giá trung tâm có xu hướng tăng nhẹ, đến ngày 24/01/2019, tỷ giá trung tâm ở mức 22.880 (tỷ giá sàn 22.193 VND/USD và mức tỷ giá trần 23.566 VND/USD), tăng 55 VND/USD ( 0,24%) so với cuối năm 2018. Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng chủ yếu giao dịch quanh mức giá mua của ngân hàng nhà nước (23.200 VND/USD), không biến động nhiều so với cuối năm 2018.
Video đang HOT
Trong tháng 1/2019, giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng quốc tế, tuy nhiên trong biên độ hẹp hơn. Đầu tháng 01/2019, giá vàng bình quân trong nước được giao dịch quanh mức 36,43/36,55 triệu đồng/lượng, sau đó tăng theo giá vàng quốc tế. Đến sáng ngày 24/01/2019, giá vàng trong nước giao dịch ở mức 36,4/36,6 triệu đồng/lượng. Chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC và giá vàng quốc tế hiện ở mức khoảng 600 nghìn đồng/lượng.
Về thu, chi ngân sách nhà nước, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước tháng đầu tiên năm 2019 ước đạt 144,6 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 10,2% dự toán năm.
Riêng về dòng vốn đầu tư nước ngoài, số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết, tính đến ngày 20/1/2019, tổng vốn đầu tư có yếu tố nước ngoài ước đạt 1,9 tỷ USD, tăng 51,9% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, có có 226 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 805 triệu USD, tăng 81,9%; có 72 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm khoảng 340 triệu USD, bằng 74,5% so với cùng kỳ năm 2018 và 489 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 360 triệu USD, tăng 54,7%. Giải ngân vốn FDI đạt khoảng 1,55 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó, các lĩnh vực sản xuất vẫn thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của các nhà đầu tư, đứng đầu là công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm tỷ trọng 62,4% tổng số vốn đăng ký); lĩnh vực hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ đứng thứ hai (chiếm 9,7%); lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ ba (chiếm 9,3%).
Tiếp tục ưu tiên tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2019, Chính phủ nhất quán tiếp tục ưu tiên tập trung cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mới thành lập; giảm tỷ lệ doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động; giảm chi phí đầu vào, chi phí cơ hội, chi phí không chính thức cho doanh nghiệp và người dân.
Ngay trong ngày đầu năm, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về việc tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021, mục tiêu nhằm nâng cao thứ hạng của Việt Nam trong các xếp hạng quốc tế của WB, WEF, WIPO, UN về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh… Phấn đấu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh nước ta thuộc nhóm ASEAN 4.
Trong tháng đầu năm 2019, có 10.079 doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn đăng ký đạt 151.117 tỷ đồng, giảm 7% về số doanh nghiệp và tăng 53,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018; tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 15 tỷ đồng, tăng 64,8%; tính cả 3.998 lượt doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn, tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung vào nền kinh tế trong tháng đạt gần 635,2 nghìn tỷ đồng, tăng 100,8% so với cùng kỳ năm 2018.
Bên cạnh đó, trong tháng còn có 8.465 doanh nghiệp trước đây gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động, nay đã trở lại hoạt động, tăng 84,5% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong tháng 1/2019 của cả nước là 10.804 doanh nghiệp, tăng 25,3% so với cùng kỳ năm 2018. Số doanh nghiệp này sau khi kết thúc thời hạn tạm ngừng có thể sẽ quay trở lại tình trạng hoạt động kinh doanh. Trong tháng có 4.767 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký.
Minh Ngọc
Theo vnmedia.vn
Năm 2019: Tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 7%
Theo các chuyên gia kinh tế, năm 2019, thị trường tiền tệ, lãi suất có thể được duy trì ổn định nhờ yếu tố thuận lợi như áp lực lạm phát có thể giảm do giá dầu ổn định ở mức thấp, đồng USD suy yếu làm giảm áp lực tỷ giá.
Theo ông Nguyễn Văn Thùy, Phó Trưởng ban Ban Nghiên cứu và Điều phối chính sách giám sát của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG), trong năm 2018, quy mô tổng tài sản của các định chế tài chính Việt Nam ước đạt 203% GDP, tăng 11,5% (năm 2017 tăng 17,5%). Trong đó, tỷ trọng tài sản của các Tổ chức tín dụng chiếm tới 95,5% (năm 2017 chiếm 96,1%), các doanh nghiệp bảo hiểm chiếm 3,4%, các công ty chứng khoán và các công ty quản lý quỹ chiếm 1,1%.
Năm 2019, thị trường tiền tệ sẽ tiếp tục ổn định.
Năm 2018, tổng tài sản của hệ thống tổ chức tín dụng tăng khoảng 11,5% so với năm 2017. Trong đó, tổng tín dụng ước tăng khoảng 14-15% (năm 2017 tăng 17,6%). Đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong 3 năm gần đây nhưng phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Đối với các công ty chứng khoán, tổng tài sản của hệ thống công ty chứng khoán tăng khoảng 20,3% so với năm 2017, tổng vốn chủ sở hữu tăng 22,8%, tỷ lệ vốn khả dụng bình quân theo báo cáo khoảng 409,7% (cuối năm 2017 là 413,4%).
Còn với các doanh nghiệp bảo hiểm, tổng tài sản của các doanh nghiệp này tăng 19,4%, tỷ lệ khả năng thanh toán bình quân của hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm đạt 239% (cuối năm 2017 đạt 237%), cao hơn mức 100% theo quy định.
Vai trò vốn đối ứng của thị trường vốn cho nền kinh tế gia tăng, giảm gánh nặng cho tín dụng ngân hàng. Cụ thể, tỷ trọng cung ứng vốn từ thị trường vốn cho nền kinh tế tính theo giá trị phát hành thực tế trong năm 2018 chiếm 14% tổng cung ứng vốn (năm 2017 chiếm 10,2%). Nếu tính theo giá trị vốn hóa thị trường thì tỷ trọng cung ứng vốn danh nghĩa từ thị trường vốn chiếm khoảng 36,9% tổng cung ứng vốn (năm 2017 chiếm 36,7%). Chất lượng tài sản của hệ thống định chế tài chính được cải thiện. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống định chế tài chính năm 2018 còn khoảng 2,4% (năm 2017 ở mức 2,5%). Trong đó, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng ở mức 2,4%; tỷ lệ nợ quá hạn của các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ là 4,7%; tỷ lệ các khoản phải thu khó đòi của các doanh nghiệp bảo hiểm là 6,4%. Những tín hiệu trên đã góp phần giúp cải thiện khả năng sinh lời của hệ thống định chế tài chính.
Thống kê của UBGSTCQG đưa ra cho thấy, tổng lợi nhuận sau thuế của các định chế tài chính ước tăng 33% so với năm 2017, trong đó lợi nhuận của các Tổ chức tín dụng ước tăng 40% so với năm 2017, lợi nhuận của công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ tăng 18,1% so với năm 2017.
Ông Trương Văn Phước, Quyền Chủ tịch UBGSTCQG cho rằng, sức khỏe thị trường tài chính Việt Nam cải thiện thể hiện kết quả tất yếu từ quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 1 và sự phục hồi của nền kinh tế...
Dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2019, UBGSTCQG dự báo: Kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 7%. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng, cơ quan này cũng khuyến nghị Chính phủ cần tiếp tục cải cách thể chế và môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn nhằm gia tăng đầu tư tư nhân; tái cơ cấu kinh tế cần phải thực hiện triệt để; chuyển đổi sâu và rõ nét hơn mô hình tăng trưởng nhằm tận dụng được những cơ hội đến từ yếu tố quốc tế. Đó là xu hướng dịch chuyển sản xuất do tác động của chiến tranh thương mại; triển vọng tích cực từ các hiệp định thương mại thế hệ mới như: CPTPP, EVFTA và một số các FTAs... Lạm phát có thể kiểm soát ở mức dưới 4% nếu việc điều chỉnh giá dịch vụ công được kiểm soát chặt chẽ.
Theo báo cáo về thị trường tài chính trong năm 2019, trên thị trường tiền tệ, lãi suất có thể được duy trì ổn định do có nhiều yếu tố thuận lợi như áp lực lạm phát có thể giảm do sự ổn định ở mức thấp của giá dầu, đồng USD suy yếu làm giảm áp lực tỷ giá.
Thị trường chứng khoán năm 2019 vẫn duy trì sự ổn nằm trong nhóm các thị trường mới nổi có khả năng thu hút vốn đầu tư giám tiếp nước ngoài do kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng kinh tế cao định và có triển vọng nâng hạng.
Hệ thống tổ chức tín dụng duy trì hoạt động an toàn, ổn định, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời được cải thiện; gánh nặng cung cấp vốn cho nền kinh tế được giảm nhẹ dần do sự phát triển của thị trường vốn.
Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam năm 2019 ít nhiều sẽ chịu tác động bởi yếu tố quốc tế biến động khó lường. Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc diễn biến phức tạp và nhiều khả năng còn tiếp tục kéo dài ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu. Do đó, ổn định tài chính cần tiếp tục được coi là một trong các ưu tiên trong điều hành chính sách 2019.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết: Trong năm 2018, Bộ Tài chính đã thực hiện bãi bỏ 18 thủ tục hành chính và đơn giản hóa đối với 111 thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ. Tiếp tục rà soát, đánh giá toàn bộ 987 thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực tài chính với mục đích hướng tới sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản hóa, công khai, minh bạch thủ tục hành chính. Những kết quả đạt được của Bộ Tài chính trong cải cách hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực thuế và hải quan đã mang lại nhiều lợi ích, tiết kiệm thời gian, công sức của các nhân và tổ chức trong việc thực hiện các thủ tục hành chính. Ứng dụng xây dựng và cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với các lĩnh vực thuộc quản lý của Bộ Tài chính đã hạn chế việc tiếp xúc, gặp gỡ giữa cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước, qua đó loại bỏ thái độ nhũng nhiễu, tư duy cửa quyền của một bộ phận cán bộ trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính, mang lại thuận lợi, sự hài lòng cho cá nhân và tổ chức.
ĐÀO THỌ
Theo baodansinh.vn
Dính vận đen 'bốc hơi' gần 400 tỷ tiền tiết kiệm, Eximbank báo lỗ 309 tỷ đồng Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu (Eximbank, mã chứng khoán: EIB) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý IV/2018 với khoản lỗ 309 tỷ đồng. Ảnh minh họa. Ghi nhận đến ngày 31/12/2018, tổng tài sản của Eximbank là 152.708 tỷ đồng, tăng 2,24% so với mức 149.370 tỷ đồng cùng kỳ năm 2017. Tiền gửi khách hàng là gần...