Kinh tế Việt Nam 2015: Khởi sắc trong khó khăn
Mặc dù trong điều kiện kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn nhưng kinh tế Việt Nam đã có những bước phục hồi tương đối ấn tượng.
Trong bối cảnh kinh tế Thế giới đang trên đà phục hồi, với nhiều màu sắc và tốc độ khác nhau. Các tổ chức tài chính quốc tế cũng liên tục đưa các các điều chỉnh “giảm” đối với tốc độ tăng trưởng của kinh tế Thế giới và hầu hết các nước. Nền kinh tế của Hoa Kỳ và Tây Âu khôi phục không vững chắc, trong đó Hoa Kỳ đang tăng trưởng chậm lại.
Kinh tế Trung Quốc cũng đang bước vào thời kỳ điều chỉnh mang tính chiến lược một cách quyết đoán (giảm tốc độ tăng trưởng về quanh 7% từ mức trên 10%, nhưng tăng cường nhu cầu trong nước, đẩy mạnh đổi mới KHCN, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn trong xu hướng quốc tế hóa đồng nhân dân tệ). Trong những tháng cuối năm 2015, Thế giới đang chứng kiến các sự kiện mất ổn định mới, làm tăng lên nỗi lo ngại ảnh hưởng xấu đến bức tranh chung của kinh tế thế giới trong trung hạn.
Phục hồi ấn tượng
Mặc dù vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số ít quốc gia có tốc độ phục hồi ấn tượng. Tốc độ tăng trưởng GDP – một chỉ số tổng hợp phản ánh nhiều khía cạnh của nền kinh tế chắc chắn sẽ vượt mục tiêu đề ra từ đầu năm (mục tiêu là 6,2% và tăng trưởng dự kiến đạt 6,5%) và sẽ cao hơn năm trước.
Như vậy, trong 4 năm liên tiếp (2012-2015), tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (năm 2012 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,25%, năm 2013: 5,42%, năm 2014: 5,98% và năm 2015: 6,5%). Điều này phản ánh xu hướng phục hồi vững chắc của nền kinh tế sau những năm nền kinh tế gặp nhiều khó khăn trong hệ thống ngân hàng, khu vực doanh nghiệp, thị trường bất động sản và hoạt động đầu tư.
Chỉ số giá tiêu dùng CPI – chỉ số phản ánh phần nào ổn định kinh tế vĩ mô – cũng đang ở mức rất thấp. Chỉ số giá tiêu dùng 11 tháng đầu năm 2015 tăng 0,64% so với cùng kỳ năm 2014 và lạm phát cơ bản – sau khi loại bỏ giá năng lượng và giá lương thực, thực phẩm nhằm phản ánh chính xác hơn hiệu quả của chính sách tiền tệ – 11 tháng đầu năm 2015 so với cùng kỳ năm 2014 là 2,08%. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2015 sẽ thấp hơn so với mục tiêu đề ra.
Góp phần vào tỷ lệ lạm phát thấp là do giá dầu thế giới giảm mạnh và giữ nguyên ở mức thấp, giá lương thực, thực phẩm cũng thấp và ổn định. Đây là những cú sốc tích cực lên tổng cung và nó giúp làm tăng sản lượng và giảm tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế.
Bên cạnh 2 chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh bức tranh tổng thể của nền kinh tế là tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát, nền kinh tế cũng đạt được những bước tiến tích cực về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 3% trong năm 2015 (tính đến tháng 9/2015, tỷ lệ nợ xấu đạt 2,9%) và khu vực doanh nghiệp đã có phần ổn định hơn thời gian trước đây. Dấu hiệu tích cực trong nền kinh tế năm 2015 được phản ánh rõ ràng nhất qua việc hoàn thành 13/14 chỉ tiêu kế hoạch.
Hơn nữa, vào đầu 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016 với mục tiêu “tập trung thực hiện có hiệu quả 3 đột phá chiến lược gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh”. Điều này cho thấy nỗ lực rất lớn của Chính phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững và hiệu quả.
Video đang HOT
Cũng trong đợt khảo sát Doanh nghiệp lớn trong BXH VNR500 2015 tháng 11 vừa qua của Vietnam Report, hầu hết phần lớn các Doanh nghiệp đều nhận thấy những khía cạnh liên quan đến môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2015 đang được duy trì ở mức tốt, trong đó đặc biệt phải kể đến yếu tố Tiếp cận thông tin, văn bản luật pháp, kế hoạch của Nhà nước liên quan đến công việc kinh doanh; Quản lý kinh tế vĩ mô (kiềm chế lạm phát, điều hành tỷ giá, v.v.); và Môi trường pháp lý với tỷ lệ đồng tình rất cao, lần lượt là 86,80%; 83,60%; và 95,90%. Trong khi đó, yếu tố cơ sở hạ tầng của nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém với 42,30% số Doanh nghiệp có quan điểm như vậy.
Các yếu tố liên quan đến thị trường lao động như nguồn cung ứng lao động có tay nghề, quy định về lương, v.v. cũng là một trong những khía cạnh cần được các nhà hoạch định chính sách quan tâm xem xét khi có tới 39,60% Doanh nghiệp phản hồi cho rằng vấn đề này trong nền kinh tế Việt Nam còn kém.
Nhận định của Doanh nghiệp về môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2015. (Nguồn: Khảo sát các Doanh nghiệp lớn trong BXH VNR500 2015, Vietnam Report thực hiện tháng 11/2015)
Khởi sắc trong khó khăn
Bên cạnh những nhân tố khởi sắc, kinh tế đất nước cũng bộc lộ rõ những yếu kém và mất cân đối mới khi nền kinh tế đang cơ cấu lại, những vấn đề tồn đọng có thể gây nên những bất ổn kinh tế vĩ mô. Cán cân thương mại sau 3 năm (2012-2014) thặng dư nhẹ thì sang năm 2015 có chiều hướng thâm hụt trở lại như thời kỳ trước đây (11 tháng đầu năm 2015, nhập siêu của nền kinh tế ước đạt 3,8 tỷ USD).
Lần đầu tiên cán cân thu chi ngân sách đã bị mất cân đối với quy mô lớn nhưng khó huy động nguồn bù đắp, khi nợ công đã vượt 60% GDP, nhất là ngân sách trung ương, đe dọa việc thực hiện nhiều chính sách KTXH quan trọng, trong đó có tăng lương. Thêm vào đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nội địa đang phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay từ các ngân hàng là một trong những thách thức của Việt Nam.
Thêm vào đó, khi tỷ lệ tích lũy nội bộ nền kinh tế đạt trên 30-31% GDP và nguồn vốn bên ngoài đổ vào Việt Nam cũng gần 10% GDP, nhưng tỷ lệ đầu tư chỉ 30-31% GDP. Tiến độ cải cách DNNN cũng đang gặp những khó khăn lớn không chỉ về kỹ thuật cổ phần hóa mà vướng mắc ở tư duy phát triển và vai trò của khu vực công. Từ những phân tích trên có thể đi tới một nhận định tổng quát là kinh tế 2015 chuyển biến khá, nhưng chất lượng thấp và nhiều rủi ro.
Ngày 12/01/2016, Công ty CP Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) và Báo VietNamNet sẽ chính thức tổ chức Buổi Lễ Công bố Bảng xếp hạng VNR500 – Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2015 tại Khách sạn Rex, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là năm thứ 9 liên tiếp, Bảng xếp hạng VNR500 được công bố nhằm ghi nhận những Doanh nghiệp không chỉ đạt được những thành tựu to lớn trong kết quả kinh doanh mà còn có những đóng góp to lớn cho cộng đồng và xã hội.
Theo_VietNamNet
5 năm tới kinh tế sẽ cất cánh?
Kinh tế Việt Nam được dự báo đã thoát ra khỏi giai đoạn suy giảm và bước vào giai đoạn mới với nhiều khí thế. Các mục tiêu được đặt ra cao hơn, lạc quan hơn nhưng cũng còn rất nhiều thách thức cần giải quyết nếu muốn kinh tế thực sự "cất cánh".
Kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi giai đoạn suy giảm. (Ảnh: H.LINH)
Vượt khó
Điểm lại chặng đường 5 năm qua (2011-2015) tại Diễn đàn Đối tác phát triển (VDPF) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới tổ chức mới đây, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết: Kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn khoảng 2% vào năm 2015. Tăng tưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý và phục hồi khá cao vào những năm cuối; chất lượng tăng trưởng được nâng lên. Tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt trên 6,5%, cao nhất 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%). Bình quân 5 năm 2011-2015 đạt khoảng 5,9%. GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người 2.228 USD.
Tuy tăng trưởng 5 năm qua không đạt kế hoạch đề ra, nhưng nhiều mặt về kinh tế, xã hội của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá tích cực. Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng thế giới tại Việt Nam nhấn mạnh: "Tốc độ tăng trưởng bình quân của Việt Nam gần đạt 6% trong thời gian qua trong khi các nước trong khu vực đạt 5,6% làm cho quy mô nền kinh tế tăng gần gấp đôi, và hiện nay đạt khoảng 200 tỉ USD. Thu nhập bình quân đầu người tăng 4,8% hàng năm, hiện nay đạt 2.200 USD".
5 năm tới, Việt Nam thoát khỏi giai đoạn suy giảm
Chính phủ đã đề ra mục tiêu điều hành nền kinh tế trong 5 năm tới với mức tăng trưởng GDP là 6,5-7%, kiểm soát lạm phát trong khoảng 5-7%. Bội chi ngân sách Nhà nước đến năm 2020 giảm xuống còn 4,8% GDP. Đây là mục tiêu khá lạc quan bởi trong 7 năm qua Việt Nam đã phải trải qua hai đợt lạm phát tăng cao khiến nền kinh tế rơi vào suy thoái kéo dài.
Tại hội thảo dự báo kinh tế Việt Nam 2016-2020, bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia (NCIF) nhận định: Giai đoạn 2016-2020 kinh tế Việt Nam sẽ thoát khỏi giai đoạn suy giảm và bắt đầu vào chu kỳ phục hồi mới. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế được kỳ vọng hồi phục mạnh trong giai đoạn tới nhờ vào hàng loạt yếu tố hỗ trợ từ giá hàng hóa thấp, lực đẩy từ các DN FDI và nhu cầu bên ngoài, cùng với những cải cách về thể chế của nền kinh tế sẽ phát huy hiệu quả.
Trong số 3 kịch bản được Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia đưa ra cho giai đoạn 2016-2020, thì có 2 dự báo khá lạc quan với mức tăng trưởng GDP đạt từ 6,67-7% trở lên và lạm phát duy trì ở mức một con số. Còn ở kịch bản kém lạc quan hơn, tăng trưởng vẫn đạt 6% còn lạm phát cao trở lại trên 7%.
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh lạc quan: "Sau giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng dưới 6%, kinh tế Việt Nam sẽ tăng tốc trong 5 năm tới, với mức trung bình 6,5-7%. Thu nhập bình quân đầu người, theo đó đạt 3.200-3.500 USD vào năm 2020, tăng khoảng 1.000 USD so với hiện nay".
Sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức
TS Lương Văn Khôi, Trưởng ban Kinh tế thế giới (Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia) cho rằng: Những yếu tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và ổn định kinh tế Việt Nam từ nay đến năm 2020 là nâng cao hơn nữa hiệu lực thực thi chính sách trong quá trình đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế và tận dụng tốt thời cơ hội nhập. Đáng lưu ý, Hiệp định TPP dự báo sẽ tác động lan tỏa tích cực tới thương mại Việt Nam. Theo tính toán của các DN, nếu thuế NK giảm xuống 0% thì hàng dệt may và giày dép Việt Nam sẽ đứng trước cơ hội lớn trong việc mở rộng thị trường sang các nước TPP, đặc biệt là Mỹ. Thêm vào đó Việt Nam sẽ tiếp tục hưởng lợi từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội XK và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.
Mặt khác, Bà Victoria Kwakwa đại diện Ngân hàng thế giới tại Việt Nam trong phần cuối của bài phát biểu tại Diễn đàn VDPF đã đặt ra một câu hỏi đầy nhức nhối. Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu để tài trợ cho chương trình phát triển đầy tham vọng trong 5 năm tới? Nhất là, khi các nguồn vốn ưu đãi đã thu hẹp dần, Việt Nam sẽ phải dựa vào nguồn thu trong nước là chính. Nhưng tỉ lệ thu trên GDP đã thể hiện xu thế giảm trong 5 năm qua, từ 27% xuống còn 21%. Tăng cường huy động nguồn thu nội địa, tiết kiệm chi tiêu sẽ là yếu tố quan trọng giúp hoàn thành các mục tiêu phát triển mà không chịu rủi ro mất bền vững nợ. Ngoài ra, nguồn vốn ODA cũng phải được sử dụng hiệu quả hơn nhằm thu hút vốn tư nhân.
"Nền kinh tế và xã hội Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp trong những năm tới, vì vậy đòi hỏi Nhà nước phải có năng lực và trách nhiệm giải trình cao hơn thì mới quản lí được. Vấn đề mấu chốt ở đây là phải có một bộ máy hành chính công chuyên nghiệp. Quá trình cải cách hành chính công kéo dài của Việt Nam cho đến nay vẫn chưa cho thấy kết quả rõ nét. Có lẽ cần xem xét vấn đề lại và xốc lại quyết tâm thì mới có thể thành công được." bà Victoria Kwakwa khuyến nghị.
Đưa ra thông điệp tăng trưởng đến cộng đồng quốc tế, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: "Trong 5 năm tới (2016-2020), bên cạnh thời cơ, thuận lợi, Việt Nam cũng phải nỗ lực để vượt qua những khó khăn, thách thức không nhỏ. Chúng tôi nhận thức rõ rằng, những bước phát triển sắp tới của chúng tôi có nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt và vượt qua không ít khó khăn, thách thức".
Bày tỏ không chủ quan, thỏa mãn với những kết quả đạt được, Thủ tướng thể hiện quyết tâm: "Nếu 5 năm 2011 - 2015 tăng trưởng chỉ đạt khoảng gần 6%, thì mục tiêu 5 năm tới phải từ 6,5-7% và nền tảng vĩ mô ổn định".
TS Lê Quốc Phương, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Thương mại và Công nghiệp (Bộ Công Thương): Hội nhập ngày càng sâu rộng, mỗi biến động của thế giới đều tác động tới kinh tế Việt Nam. Dự báo tốt về triển vọng kinh tế thế giới và đánh giá được những tác động của tình hình thế giới, của các Hiệp định thương mại sẽ giúp cho các ngành nghề kinh tế, các DN kinh doanh chủ động nắm bắt những cơ hội, vượt qua khó khăn để thúc đẩy sản xuất và kinh doanh, từ đó phát triển kinh tế. Trong bối cảnh triển vọng kinh tế thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh lên trong trung hạn, kinh tế Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tăng trưởng tích cực trong những năm tới. Ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đầu tư khoảng 9-10% GDP vào các lĩnh vực như giao thông, năng lượng, nước sạch... ở mức rất cao và theo các tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn ngân sách này đã giúp Việt Nam nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng lưới cơ sở hạ tầng quốc gia. Tuy nhiên, vì nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục phát triển, đất nước đang ngày càng giàu hơn, Việt Nam bắt đầu phải đối mặt với những thách thức mới về nguồn tài chính để xây dựng kết cấu hạ tầng. Khi kinh tế phát triển ngày càng mạnh hơn, Việt Nam tiếp tục bị mất đi các nguồn viện trợ không hoàn lại và vay vốn ODA ưu đãi. Điều này đang làm giảm một nguồn lực tài chính vô cùng quan trọng mà thường được sử dụng cho các cơ sở hạ tầng trọng yếu. Ông Jonathan Dunn, đại diện thường trú Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam: Việt Nam nên tăng cường nỗ lực thu ngân sách, tiếp tục hợp lý hóa khoản chi lớn cho lương ở khu vực công bằng cách cải cách toàn diện bộ máy công chức và tăng chi đầu tư công nhưng hiệu quả hơn... Củng cố tài khóa sẽ mang lại nhiều lợi ích nhờ tính bền vững của nợ công và có thêm không gian tài khóa để đối phó với các cú sốc bên ngoài có thể xảy ra. Ngoài ra, cần thúc đẩy cải cách cơ cấu. Tiến hành cải cách nhanh hơn và chất lượng hơn sẽ giúp tăng thêm niềm tin, giảm rủi ro tài khóa phát sinh từ khu vực ngân hàng và các DNNN, thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là hoạt động XK của các DN trong nước nhằm tạo công ăn việc làm và những cơ hội cho lực lượng lao động đầy nhiệt huyết và đang tăng nhanh của Việt Nam. L.B (ghi)
Theo Báo Hải quan
Vinamilk vươn lên vị trí số 1 Top 10 DN tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2015 Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) vừa chính thức công bố danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (Bảng xếp hạng VNR500 năm 2015). Trong danh sách 10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam mới công bố, Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã vươn lên vị trí số...