Kinh tế Mỹ chính thức rơi vào suy thoái kỹ thuật
Nền kinh tế Mỹ trong quý 2 đã suy giảm với tốc độ chậm hơn so với dự báo trước đó, nhưng vẫn có các tiêu chí về suy thoái kỹ thuật do lạm phát hoành hành và lãi suất cao.
Một người phụ nữ mua sắm tại siêu thị El Progreso, Washington, D.C., Mỹ. Ảnh: Reuters
Theo tờ FoxBussiness, hôm 25/8, Bộ Thương mại Mỹ cho biết tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã giảm 0,6% trong quý thứ 2 so với cùng kỳ năm ngoái. Con số này thấp hơn mức giảm 0,9% được báo cáo ban đầu.
GDP của Mỹ trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 3 năm nay đã giảm 1,6% – mức giảm mạnh nhất kể từ đầu năm 2020 trong bối cảnh kinh tế chìm sâu trong cuộc suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra.
Theo Cơ quan Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER), suy thoái kỹ thuật là khi trong 2 quý liên tiếp, quốc gia đó có mức tăng trưởng kinh tế âm với tỷ lệ thất nghiệp cao, tăng trưởng GDP thấp hoặc âm, thu nhập giảm và doanh số bán lẻ chậm lại.
Khi hoạt động kinh tế trên khắp đất nước ghi nhận tình trạng suy giảm đáng kể và kéo dài hơn một vài tháng, nền kinh tế sẽ chính thức rơi vào suy thoái kỹ thuật. Tuy nhiên, NBER có thể chưa xác nhận điều này ngay lập tức, vì cơ quan này thường đợi đến một năm để cân nhắc. NBER cũng nhấn mạnh họ cần xem xét nhiều dữ liệu GDP hơn để xác định liệu nền kinh tế có suy thoái hay không, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp và chi tiêu tiêu dùng vốn vẫn tăng mạnh trong 6 tháng đầu năm. Các nhà phân tích cũng xem xét hoạt động kinh tế suy giảm ở mức độ nào.
“Do đó, trên thực tế, GDP có thể giảm tương đối ít trong 2 quý liên tiếp nhưng chưa chắc chắn xác định nền kinh tế đó rơi vào suy thoái kỹ thuật”, NBERcho biết trên trang web. Hội đồng này cũng không họp thường xuyên, trong khi quyết định được đưa ra cần tất cả các thành viên xác nhận.
Đợt suy thoái mới nhất của nền kinh tế Mỹ bắt nguồn từ một số yếu tố như hàng tồn kho tư nhân, đầu tư vào khu dân cư và nhà ở, chi tiêu của chính phủ liên bang, tiểu bang và địa phương đều sụt giảm. Những khoản này được bù đắp khi xuất khẩu ròng cũng như chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ gia tăng, vốn chiếm 2/3 GDP.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng đang chi tiêu ít hơn nhiều so với mùa đông. Cụ thể, chi tiêu tiêu dùng cá nhân chỉ tăng 1% trong giai đoạn lạm phát cao kéo dài, làm giảm sức mua của người Mỹ.
Video đang HOT
Theo giới chuyên gia, báo cáo này có thể thúc đẩy cuộc khủng hoảng chính trị đối với Tổng thống Joe Biden và khiến việc hoạch định chính sách của Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FED) thêm phức tạp. Giới chức đang cân nhắc tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát mà không đè bẹp tăng trưởng kinh tế.
Các nhà hoạch định chính sách của FED đã nâng lãi suất chuẩn lên 75 điểm cơ bản vào tháng 6 và tháng 7 lần đầu tiên kể từ năm 1994. Giới phân tích cảnh báo có thể có một đợt tăng lãi suất nữa vào tháng 9, tùy thuộc vào dữ liệu kinh tế sắp tới.
Vào tháng trước, ông Jerome Powell – Chủ tịch FED) – cho hay ông không tin nền kinh tế Mỹ đang suy thoái.
“Tôi không nghĩ kinh tế Mỹ đang suy thoái. Lý do là có rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế đang hoạt động quá tốt. Đây là một thị trường lao động rất mạnh. Với những dấu hiệu này, nền kinh tế sẽ không thể rơi vào tình trạng suy thoái”, ông Powell nói.
Bức tranh đối nghịch trên thị trường lao động Mỹ
Trên khắp nước Mỹ, những thông báo tuyển dụng như "Help Wanted" (Tìm người trợ giúp) đang xuất hiện ngày một nhiều.
Biển cần tuyển nhân viên tại một cửa hàng ở Los Angeles, California, Mỹ, ngày 28/1/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
Điều này xảy ra khi các công ty tại nền kinh tế lớn nhất thế giới đang phải vật lộn để đối phó với tình trạng thiếu nhân công do hậu quả của một loạt yếu tố như đại dịch COVID-19, tình trạng nghỉ hưu non và luật nhập cư hạn chế.
Theo số liệu từ chính phủ, có đến hơn 10 triệu vị trí việc làm cần tuyển dụng đã không được đáp ứng vào tháng 6/2022 tại Mỹ. Trong khi đó, nước này chỉ ghi nhận chưa đến 6 triệu người lao động tìm kiếm việc làm. Sự chênh lệch này diễn ra bất chấp việc các công ty đang gia tăng tốc độ tuyển dụng trong bối cảnh chi tiêu tiêu dùng tăng mạnh mẽ.
"Chúng tôi có rất nhiều việc làm, nhưng không có đủ nhân công để lấp đầy những chỗ trống", Phòng Thương mại Mỹ, cơ quan đại diện cho các công ty Mỹ, cho biết trong một tuyên bố.
Rất nhiều người lao động đã không quay trở lại thị trường việc làm sau khi họ nghỉ việc vào thời điểm đại dịch COVID-19 tàn phá nền kinh tế Mỹ vào đầu năm 2020.
Theo tính toán của Phòng Thương mại Mỹ, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động hiện có việc hoặc đang tích cực tìm việc đã giảm xuống 62,1% từ mức 63,4% được ghi nhận trước tại dịch.
Câu hỏi được đặt ra là những người này đã đi đâu? Nhiều người chỉ đơn giản là nghỉ hưu sớm.
Ngoài ra, Nick Bunker, một chuyên gia về thị trường lao động của trang web việc làm Indeed, chia sẻ với hãng tin AFP rằng: "Một phần khác là do dân số Mỹ đang tiếp tục già đi". Tuy nhiên, phần lớn nguyên nhân không chỉ dừng lại ở đó.
Quá ít người nhập cư
Diane Swonk, nhà kinh tế trưởng của công ty cung cấp dịch vụ tài chính KPMG, nói với AFP rằng trong khi lực lượng lao động hùng hậu của thế hệ "baby boomers" (Thời kỳ bùng nổ trẻ sơ sinh - là nhóm nhân khẩu học thường được định nghĩa là những cá nhân sinh từ năm 1946 đến 1964, trong thời kỳ bùng nổ trẻ sơ sinh của thế giới sau Thế chiến II) đã gần đến độ tuổi phải rời thị trường lao động, thì nước Mỹ tiếp tục đối mặt với thách thức mang tên nghỉ hưu non.
Hàng triệu người đã lựa chọn nghỉ hưu sớm vì họ lo lắng cho sức khỏe của mình và đã có đủ tài sản, nhờ vào sự bùng nổ mạnh mẽ của thị trường chứng khoán lúc bấy giờ và môi trường giá bất động sản tăng cao.
Trong ngắn hạn, chuyên gia Bunker nói, "việc đưa lực lượng tham gia lao động về mức trước đại dịch là gần như không thể vì điều kiện dân số già (của nước Mỹ)".
Trong khi đó, nhà kinh tế này cho biết thêm: "Chúng tôi (nước Mỹ) không có đủ người nhập cư để thay thế cho sự rút lui của người thuộc thế hệ 'baby boomers'".
Những hạn chế được áp đặt dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump, cộng với tác động của đại dịch COVID-19, đã làm giảm đáng kể số lượng người nước ngoài nhập cảnh vào Mỹ. Mặc dù số lượng này đã phục hồi đôi chút, nhưng vẫn chưa đạt mức của vài năm trước, chuyên gia Bunker nói.
Ngoài ra, Phòng Thương mại Mỹ cũng đưa ra một lý do khác, đó là dưới tác động của sự hỗ trợ hào phóng từ phía chính phủ trong thời kỳ đại dịch, nhiều người lao động đã có thể tự ổn định khả năng tài chính của họ mà không cần tham gia lực lượng lao động.
Những di chứng hậu COVID-19
Thông báo tuyển dụng lao động tại Arlington, bang Virginia, Mỹ ngày 16/3/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
Một lượng lớn phụ nữ đã nghỉ việc vào năm 2020, một phần do thời gian nghỉ học tại trường kéo dài buộc họ phải ở nhà chăm sóc con cái. Trong khi đó, tình trạng thiếu lao động trầm trọng cũng xảy ra tại các cơ sở nhận trông giữ trẻ vào ban ngày.
Đồng quan điểm này, nhà kinh tế trưởng Swonk của KPMG cũng lưu ý rằng những tác động suy nhược kéo dài của đại dịch COVID-19 cũng để lại những hậu quả lớn.
Theo chuyên gia Swonk, đây thực sự là một trong những vấn đề đang bị đánh giá thấp và bị hiểu lầm. Để thu hút người lao động trở lại, nhiều người sử dụng lao động đã buộc phải tăng lương và phúc lợi.
Các nhà phân tích cho rằng nếu "cơn cuồng mua hàng" của người Mỹ hạ nhiệt, các công ty sẽ cần ít nhân công hơn. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt lao động dự kiến sẽ giảm bớt do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong thời gian tới để kiềm chế lạm phát.
Trái ngược với sự thống khổ của các nhà tuyển dụng, những người lao động lại đang được hưởng lợi. Trong năm qua, hàng triệu người đã thay đổi công việc. Họ bị thu hút bởi mức lương cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.
Điều này tạo ra một bức tranh đối nghịch trên thị trường lao động Mỹ, đồng thời khiến mặt bằng lương trung bình theo giờ tăng cao. Mức lương trung bình của khu vực tư nhân tại Mỹ hiện là 32,27 USD/giờ, tăng 5,2% trong một năm, từ đó làm tăng thêm áp lực lạm phát.
Thị trường lao động Mỹ đã có những dấu hiệu tích cực mới trong tháng Bảy. Có 22 triệu việc làm bị mất do đại dịch COVID-19 đã quay trở lại và tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp nhất trong lịch sử là 3,5%.
Lạm phát ở Bồ Đào Nha tăng cao nhất trong 30 năm Ngày 11/8, Viện Thống kê quốc gia Bồ Đào Nha (NSI) công bố dữ liệu cho thấy trong tháng 7, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở nước này đã tăng lên 9,1%, mức cao nhất kể từ tháng 11/1992. Người dân mua sắm tại một chợ ở Cascais, Bồ Đào Nha ngày 13/7/2022. Ảnh: THX/TTXVN Theo NSI, tỷ lệ lạm phát cơ...