‘Kinh hãi’ bộ tộc dùng tro cốt người làm thức ăn
Bộ tộc sống tách biệt với xã hội, dùng tro cốt người c.hết chế biến thành thức ăn hoặc làm gia vị cho nhiều món, với món chính là súp chuối.
Bộ tộc Yanomami dùng tro cốt người c.hết để làm gia vị thức ăn.
Bộ tộc Yanomami là thổ dân da đỏ bản địa ở vùng rừng rậm Amazon nằm ở biên giới giữa Venezuela và Brasil với dân số chừng 20.000 người. Họ sống trong hàng trăm ngôi làng và tạo thành nhóm bộ lạc lớn nhất trong rừng Amazon. Bộ tộc có tập tục kỳ lạ. Họ dùng tro cốt người c.hết chế biến thành thức ăn hoặc làm gia vị cho nhiều món, với món chính là súp chuối. Kể từ khi được phát hiện đến nay, bộ tộc ở rừng Amazon này vẫn sống hoang dã như tổ tiên của họ và không muốn liên hệ với thế giới bên ngoài, không muốn thay đổi thói quen từ thuở xa xưa.
Bộ tộc Yanomami là bộ tộc mà b.é t.rai 8 t.uổi đã được coi là đàn ông.
Yanomami là bộ tộc lớn nhất vẫn giữ nếp sống nguyên thủy, với gần 38.000 người sinh sống tại Brazil và Venezuela. Bộ tộc này có tập tục tụ họp dưới mái nhà chung shabono. Trung bình, một shabono có chu vi chừng 90m, hình tròn, giữa là khoảng sân rộng, làm từ các nguyên liệu tự nhiên như lá và dây leo của rừng nhiệt đới. Cứ mỗi 4-6 năm/lần, người Yanomami lại dỡ bỏ shabono cũ, dựng cái mới. Trong tộc Yanomami, b.é t.rai vừa lên 8 t.uổi đã được coi là đàn ông, b.é g.ái sau kỳ kinh đầu tiên được xem như phụ nữ trưởng thành. Họ phân công công việc rất rõ ràng, thích xăm mình, am tường kiến thức tự nhiên. Yanomami cũng là tộc xuất sắc trong việc chế tạo và sử dụng chất độc từ thực vật. Đàn ông trong tộc rất hiếu chiến, sẵn sàng “động thủ” trước bất cứ mối đe dọa nào, bất chấp chuyện phải đổ m.áu.
Bộ tộc Sentinelese khước từ mọi liên lạc với thế giới bên ngoài và đáp trả những người muốn tới gần họ bằng những mũi tên.
Sentinelese là một bộ tộc có khoảng 50 – 400 người sống ở phía Bắc hòn đảo Sentinel, Ấn Độ. Đây là một trong những tộc người tách biệt với thế giới bên ngoài. Họ từ chối mọi sự liên lạc. Khi phát hiện người lạ tới gần, thành viên của bộ tộc sẽ chào đón họ bằng mũi tên. Người Sentinelese sống chủ yếu bằng săn b.ắn, hái lượm và câu cá. Không bằng chứng cho thấy họ dùng các phương thức tạo lửa hay chăn nuôi, trồng trọt. Năm 2004, họ đã sống sót kỳ diệu sau trận sóng thần. Tới nay người ta vẫn chưa hiểu vì sao họ vượt qua thảm họa.
Video đang HOT
Bộ lạc Uganda mà người ta coi việc lấy các cô gái còn trinh tiết là một điều sỉ nhục.
Tại các bộ lạc Uganda, người ta coi việc lấy các cô gái còn trinh tiết là một điều sỉ nhục. Nếu như một vị thủ lĩnh bộ lạc lấy một cô gái còn trinh tiết làm vợ thì chắc chắn ông ta sẽ bị cả bộ tộc ấy k.hinh r.ẻ, c.oi t.hường dù là thủ lĩnh. Điều thú vị hơn nữa chính là, để tránh việc các thủ lĩnh lấy phải những cô gái còn trinh, trong các bộ lạc này còn có một nghề được coi là rất “bất hạnh” đó chính là ăn nằm với các cô gái còn trinh tiết. Những người bất hạnh này được giao nhiệm vụ khổ hạnh đó là ăn nằm trước với những ứng cử viên được tuyển làm vợ của thủ lĩnh để chắc chắn rằng, họ không còn trinh tiết khi trở thành vợ của thủ lĩnh bộ tộc. Người dân thuộc các bộ tộc này cho rằng, khi người phụ nữ đã ăn nằm với đàn ông thì họ càng thuần khiết và trong trắng hơn.
Tộc người Pygmy nhỏ bé nhất thế giới.
Người Pygmy là tộc người nhỏ bé nhất thế giới, với chiều cao từ 1,2 – 1,4m, cân nặng không quá 50kg. Họ là những cư dân xuất hiện sớm nhất tại vùng Trung Phi, cũng là hậu thế của nền văn minh Sanga. Điều kỳ lạ là chức năng sinh lý của tộc người này phát triển từ 8 – 9 t.uổi. Các b.é g.ái, b.é t.rai tới độ t.uổi này được xem là đã trưởng thành và bắt đầu quan hệ. Đây là một mốc quan trọng đ.ánh dấu bước chuyển biến một b.é g.ái đồng trinh thành người phụ nữ thực sự, thậm chí bắt đầu sinh con đẻ cái.
Bộ tộc Wodaabe nơi đàn ông mặc váy và thi sắc đẹp.
Bộ tộc Wodaabe – một bộ tộc kỳ lạ, nơi đàn ông mặc váy và thi sắc đẹp. Cuộc thi sắc đẹp có lẽ là cuộc thi cạnh tranh quyết liệt nhất thế giới, hơn cả thi hoa hậu. Bởi lẽ người chiến thắng, ngoài vinh dự được tung hô, còn có thể chiếm được một người vợ xinh đẹp. Những người phụ nữ ở bên dưới cũng lựa chọn người chồng tiếp theo cho riêng mình. Nếu họ thích một ai đó, họ sẽ tự nguyện “bị cướp” bởi người đó và sẵn sàng b.ỏ c.hồng mình lại phía sau.
Bộ tộcKorowai đến giờ vẫn sống trên ngọn cây.
Trong thời đại của thế kỷ 21 này vẫn tồn tại một bộ tộc chuyên sống trên ngọn cây cùng những tập tục thời nguyên thủy. Đó là bộ tộc Korowai ở tỉnh Papua, Indonesia. Một nhà truyền giáo người Hà Lan tới Indonesia và phát hiện ra bộ tộc này vào năm 1974. Như người nguyên thủy, bộ tộc Korowai sống thành một nhóm lớn, nói ngôn ngữ riêng, chỉ chuyên săn b.ắn và hái quả để kiếm sống. Đàn ông của bộ tộc này hầu như không mặc gì mà chỉ quấn một sợi dây ngang bụng. Đàn bà của bộ tộc thường chỉ mặc duy nhất một chiếc váy ngắn làm bằng những chiếc lá khô.
Bộ tộc Hadza (Tanzania – Châu Phi) lâu đời nhất thế giới.
Hadza (Tanzania – châu Phi) – bộ tộc lâu đời nhất Hadza là tộc bản địa lâu đời nhất, vẫn cư trú tại địa điểm mà tổ tiên họ cách đây 1,9 triệu năm từng sinh tồn, Hồ Eyasi ở Tanzania, vùng Đông Phi. Người Hadza rất biệt lập, ngay cả trên mặt di truyền cũng không dây mơ rễ má với tộc nào khác.
Hiện tộc Hadza chỉ gồm 300-400 người, chia thành các nhóm 20-30 người. Họ không trồng trọt chăn nuôi, mà hoàn toàn dựa vào săn bắt và hái lượm. Điểm nổi bật nhất trong tính cách của người Hadza chính là tính vị tha. Không có chuyện xung đột, đấu đá trong tộc người này. Trẻ con Hadza được nâng niu như trứng mỏng, yêu thương hết lòng.
Ngoài ra, dù không có quy định phải một vợ một chồng nhưng mọi cặp đôi Hadza đều chung thủy trọn đời. Chia sẻ thức ăn là chuyện bình thường trong tộc. Họ no cùng no, đói cùng đói, tuyệt đối không có chuyện giành giật miếng ăn. Đàn ông Hadza lo săn b.ắn, kiếm mật ong, phụ nữ lo hái lượm. Song, tùy vào tình hình, vai trò có thể đảo lộn. Tính ra, người Hadza rất thoải mái, bình đẳng giới. Họ “nguyên thủy” đó nhưng lại là cái nguyên thủy mà cả thế giới phải ngưỡng mộ, ganh tị.
Đỗ Hợp
Theo T.iền phong
Cội bồ đề
Mọi nhân duyên ở đời có lẽ không phải đều bỗng nhiên vô cớ. Nó là một quá trình đi và sống, tích lũy đủ thì thành duyên!
1. Hoàng hôn ở Lâm Tỳ ni buông xuống rất nhanh. Một hoàng hôn với những quầng sáng rực rỡ, cùng màu với những bóng cà sa tư thế ngồi thiền tĩnh lặng, từng góc, từng góc. Thời gian như ngưng lại ở nơi này. Khi đứng ở Lâm Tỳ ni - nơi mà vào năm 624 trước Công nguyên là một địa danh cách kinh thành Ca Tỳ La Vệ khoảng 25 km (nay là một địa danh thuộc Nepal), nơi Hoàng hậu Maya hạ sinh Thái tử Siddhattha Gotama - nghe kể về cuộc đời Đức Phật, về những ngàn năm bãi bể nương dâu lại khiến cho người ta bỗng nhiên có cảm giác rất bùi ngùi.
Này đây là phiến đá in dấu bàn chân nhỏ, nơi mà Ngài bước đi bảy bước mỗi bước nở một đoá sen. Những phiến đá đã có nhiều thế kỷ vùi sâu dưới lòng đất qua những cuộc hưng vong dâu bể. Tôn giáo nào cũng hướng thiện nhưng cuộc đấu tranh giữa các hệ tư tưởng trên thế giới thì chưa bao giờ bình lặng.
2. Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) là một thành phố ở quận Gaya, Bihar (Ấn Độ). Dòng thông tin ít ỏi ấy không lý giải được hết lý do vì sao thái tử Tất đạt đa Cổ đàm lại chọn bờ sông Falgu này để ngồi thiền dưới bóng cây bồ đề - sau 49 ngày đêm - Ngài đã đạt tới giác ngộ và thấu hiểu. Bây giờ ở nơi này bóng bồ đề vẫn quanh năm râm mát. Một đồng nghiệp thì thào khi chúng tôi cùng đi nhiễu xung quanh tháp Đại Giác: Chạm vào Đức Phật em như thấy có luồng điện toả ra.
Chắc chắn không phải mình cô nhà báo có cảm giác ấy, những dòng người quanh năm suốt tháng không bao giờ dứt vẫn tìm về đây, chọn một chỗ ngồi thiền hay đi nhiễu quanh tháp và cội bồ đề, vẫn tìm thấy cho mình năng lượng toả ra từ trí tuệ và từ bi của Đức Phật. Hành trình tới giác ngộ và giải thoát cho dù đã được Đức Phật bằng cuộc đời mình chỉ ra, thì sống để đạt tới an lạc vẫn là sự vật lộn chưa bao giờ dễ dàng đối với mỗi con người trong thế giới bao la đầy rẫy khó khăn, cám dỗ và phù hoa này...
Chỉ có điều, cái cảm giác ngồi dưới tán bồ đề là rất thật, rằng trước Phật, mọi người đều bình đẳng, dù đến đây trong tâm thế nào, thực hành nghi lễ bằng hình thức nào thì ở trên cao, Phật vẫn mỉm cười, bao dung. Cũng rất thật, ở bên ngoài cổng, chỗ bắt đầu bước vào khu thánh tích này, những người bán hàng rong và những đ.ứa t.rẻ Ấn Độ đã học để nói được câu niệm chú bằng tiếng Việt:
Nam mô bổn sư Thích ca Mâu ni Phật, chỉ cốt để khách người Việt mềm lòng mà mua hàng hay cho t.iền. Không phong phú, bộn bề phức tạp không phải là cuộc đời. Mà đa phần chúng ta, tìm đến gốc bồ đề, chiêm nghiệm để tiếp thêm năng lượng, là để tiếp tục cuộc đời mỗi người, theo mỗi cách.
3. Thành phố Varanasi (thành Ba La Nại) nơi có vườn Lộc Uyển nằm bên sông Hằng huyền thoại. Chúng tôi ngồi ở vườn Lộc Uyển (Sarnath), đọc theo thầy bài kinh Chuyển Pháp Luân - bài pháp đầu tiên Đức Phật giảng ở đây. Nắng vàng rực rỡ trên đỉnh tháp Chuyển Pháp Luân, trên những nền móng di tích được trưng bày nguyên trạng. Ở đây, trong khu vườn này còn có tháp mang tên Hạnh Ngộ. Quả là hạnh ngộ trong cuộc đời không dễ giải thích, đành phải nương vào chữ duyên. Mỗi chuyến đi là một nhân duyên đẹp đẽ.
Và đôi khi bài học nhận được trong cuộc đời lại không phải chỉ ở bài giảng kinh pháp. Ví dụ như tôi học được bài học tự xoay xở không phiền nhiễu đến ai và bao giờ cũng có mặt đúng giờ từ Thượng tọa Thích Giác Hiệp trong suốt cả hành trình. Ở sân bay, thầy bao giờ cũng đi trước, và luôn có ý chờ để hướng dẫn cho người phía sau. Cũng ở sân bay, thầy khuyến khích tôi nên ăn thử một cốc mì tôm, để biết gia vị masala đặc trưng Ấn Độ...
Ví dụ như tôi học được ở bà - chúng tôi nhất loạt gọi bà như thế chứ không gọi tên, bà cụ 84 t.uổi trong đoàn - một bài học tinh thần vô giá. Không có điều gì được mang tên là ưu tiên đối với bà. Bà bình đẳng với thanh niên, không chịu cho ai nhường chỗ. Bà đi nhiễu ở các thánh tích đủ 3 vòng, bền bỉ, không mỏi mệt. Bà tươi cười và ân cần chu đáo hỏi han mọi người... Đôi khi, trong lúc đi bộ, tôi định ngồi xuống nghỉ, nhìn thấy bà đang kiêu hãnh bước đi, bèn bỏ ngay ý định đấy.
Sẽ còn đọng lại rất lâu hình ảnh ngài Đại sứ cúi xuống cầm dép của mình và của người thân đi bộ một quãng rồi xếp lên chỗ giá để dép theo đúng qui định khi chúng tôi bước vào Lâm Tỳ ni vào một buổi xế chiều. Ở bên kia biên giới là đất nước Ấn Độ rộng lớn - nơi Đức Phật thành đạo, hành đạo và nhập Niết bàn, bước qua bên này là Nepal - nơi có thánh tích Đức Phật đản sinh.
Nhưng dù bên kia hay bên này thì Đại sứ Việt Nam vẫn chỉ là một người - Đại sứ Phạm Sanh Châu là Đại sứ Việt Nam ở cả 3 nước Ấn Độ, Nepal và Butan. Thế cho nên cái hình ảnh giản dị của Đại sứ gây ấn tượng khá mạnh, như lúc nhập cảnh vào Nepal, ông trực tiếp trình bày câu chuyện với bộ phận xuất nhập cảnh, hay ông tận tình hướng dẫn mọi người như một tourguide sành điệu, chả nề hà gì...
Mọi nhân duyên ở đời có lẽ không phải đều bỗng nhiên vô cớ. Nó là một quá trình đi và sống, tích lũy đủ thì thành duyên!
Cẩm Thúy
Theo daidoanket.vn
Pháp khai mạc Diễn đàn Paris vì Hòa bình lần thứ 2 Sáng 12/11 (theo giờ Pháp), Diễn đàn Paris vì Hòa bình lần thứ 2 đã được chính thức khai mạc tại thủ đô Paris - Cộng hòa Pháp. Diễn đàn Paris vì Hòa bình lần thứ 2 (năm 2019) diễn ra trong hai ngày 12 và 13/11/2019 tại thủ đô Paris - Cộng hòa Pháp. Phiên khai mạc Diễn đàn, với sự góp...