Kiểm soát chặt các chỉ tiêu nợ góp phần cải thiện mức tín nhiệm quốc gia
Trong phiên thảo luận về ngân sách nhà nước tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, nhiều đại biểu Quốc hội băn khoăn xung quanh vấn đề chi trả nợ. Những băn khoăn này đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng giải đáp thấu đáo.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục nâng hạng Việt Nam trong thời gian qua. Ảnh: internet.
Trong một phần phát biểu của mình tại hội trường, ĐBQH Trần Hoàng Ngân (TP.HCM) bày tỏ lo ngại về vấn đề chi trả nợ.
“Nợ chúng ta phải trả tiền lãi vay và nợ gốc đến hạn hiện nay đang cao dần. Năm 2016 là 175.784 tỷ, năm 2017 là 255.000 tỷ, năm 2018 là 269.000 tỷ và năm 2019 ước là 326.042 tỷ. Như vậy thì nợ đáo hạn mà chúng ta phải vay để trả hay chúng ta gọi bằng từ đơn giản hơn là đảo nợ có xu hướng ngày càng tăng. Cho nên mặc dù chúng ta giữ được mức trần là nợ công/GDP ở mức 61,4% tức là dưới 65% GDP, giữ được mức nợ Chính phủ là 52%, nợ nước ngoài thì đang sát trần nhưng khả năng trả nợ và nợ đến hạn đang ngày càng tăng. Chúng tôi nghĩ rằng trong thời gian tới, Chính phủ cũng như Quốc hội phải hết sức thận trọng trong việc lựa chọn dự án nào, ưu tiên dự án nào để chúng ta đầu tư” – ĐB băn khoăn.
Được chỉ định giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã làm rõ điều này. Trước tiên, Bộ trưởng khẳng định băn khoăn của ĐB Trần Hoàng Ngân là đúng bởi 2 lý do.
Một là, trong giai đoạn 2012-2014, trước tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, để có nguồn lực ổn định vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, chúng ta đã phải huy động một lượng lớn trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 3 năm, 5 năm dẫn đến nhu cầu chi trả nợ gốc chủ yếu vào thời điểm hiện hành.
Hai là, các khoản vay ODA trước đây hết thời gian ân hạn về trả nợ gốc cùng với việc phải áp dụng điều khoản trả nợ nhanh đối với nguồn vốn vay ODA nên áp lực trả nợ gốc gia tăng.
Video đang HOT
Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, so với mấy năm trước, áp lực huy động cho ngân sách nhà nước bao gồm vay cho bù đắp bội chi và vay trả nợ gốc hay là vay đảo nợ đã giảm mạnh. Cụ thể, năm 2018, tổng mức vay của ngân sách nhà nước là 363 nghìn tỷ đồng, trong khi năm 2014 lúc chúng ta khó như thế, chúng ta phải vay 1 năm là 441 nghìn tỷ đồng, năm 2015 là 447 nghìn tỷ đồng và năm 2016 là 389 nghìn tỷ đồng.
“Chúng tôi đã biết được điều này và đang phải điều hành để đẩy dần đỉnh nợ của năm 2019-2020, cũng như chúng ta đã đẩy thành công năm 2016-2017. Chúng ta đã từng bước xử lý được các khoản nợ còn treo ngoài ngân sách trước đây. Trong đó có khoảng 22.000 tỷ đồng nợ của bảo hiểm xã hội đã báo cáo Quốc hội, đưa vào nợ công và bố trí trả nợ dần cả gốc và lãi từ năm 2018″ – Bộ trưởng chia sẻ.
Cũng theo người đứng đầu ngành Tài chính, trong 3 năm 2016-2018 đã bố trí xử lý được 57,8% tổng số nợ xây dựng cơ bản, đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn của giai đoạn 2016-2020. Các địa phương đã xử lý được trên 90% nợ đọng xây dựng cơ bản chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tháng 1/2016 là 15,2 nghìn tỷ đồng, đến ngày 31/8/2018 còn 1,3 nghìn tỷ đồng.
Việc kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp tục cải thiện mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam. Năm 2018, tổ chức Fitch và Moody’s đã lần lượt nâng hạng bậc tín nhiệm của Việt Nam lên mức BB và BA3. Tháng 7 vừa qua, quỹ tiền tệ quốc tế đã nhận định tình hình tài chính công của Việt Nam trong trung hạn ở mức ổn định, rủi ro khủng hoảng nợ ở mức thấp.
Hồng Vân
Theo baohaiquan.vn
Giảm cấp phát, tăng cường cho vay lại vốn ODA
Theo số liệu của Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài, trong giai đoạn 2011-2016 đã có 319 hiệp định vay vốn được ký kết với tổng giá trị đạt khoảng 33,643 tỷ USD.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet.
Góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia
Trong tổng giá trị nói trên, vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi là 32,296 tỷ USD; viện trợ không hoàn lại là 1,346 tỷ USD. Tổng dư nợ nước ngoài tính đến thời điểm 31/12/2016 tương đương 44,3% GDP, vẫn nằm trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết 25/2016/QH14 (nợ nước ngoài không quá 50% GDP).
Trong đó, các nhà tài trợ thuộc nhóm 6 ngân hàng phát triển chủ yếu cung cấp khoảng 80% vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi (riêng cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) chiếm 40%, Ngân hàng Thế giới (WB) chiếm 29%, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) chiếm 13%, phần còn lại là từ các nhà tài trợ khác) và các chương trình, dự án đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội quy mô lớn vẫn chiếm vị trí vượt trội.
Các lĩnh vực giao thông vận tải, môi trường (cấp, thoát nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh,...) và phát triển đô thị, năng lượng và công nghiệp là những lĩnh vực có tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi tương đối cao.
Đoàn giám sát của UBTVQH đánh giá, những số liệu trên đã cho thấy nỗ lực của Chính phủ, các cơ quan đầu mối quản lý như Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành, địa phương trong việc vận động, đàm phán, ký kết và quản lý nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài.
Theo báo cáo của Đoàn giám sát, giai đoạn 2011 - 2016, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ khoảng 226.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 17 - 18% tổng nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ, trong đó, trả nợ gốc là khoảng 158.200 tỷ đồng (chiếm 70% tổng nghĩa vụ trả nợ), trả nợ lãi và phí là 67.800 tỷ đồng (chiếm 30% tổng nghĩa vụ trả nợ).
Từng đánh giá về nội dung này, ông Nguyễn Đức Hải - Trưởng đoàn giám sát, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã khẳng định, qua thực hiện giám sát, việc trả nợ các khoản vay nước ngoài về cơ bản được thực hiện chặt chẽ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn ảnh hưởng tới cam kết, góp phần giúp Chính phủ từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Các dự án, công trình đầu tư từ nguồn vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài giai đoạn 2011 - 2016 cơ bản phù hợp với nhu cầu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ.
Cơ hội còn nhiều
Theo ý kiến của Đoàn giám sát, với nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế, xã hội của đất nước còn lớn trong bối cảnh cân đối ngân sách khó khăn, nguồn lực trong nước chưa đáp ứng đủ thì ODA và vay ưu đãi nước ngoài sẽ tiếp tục là một nguồn lực cần thiết, quan trọng đối với Việt Nam.
Trong thời gian tới, nguồn tài trợ phát triển trên thế giới sẽ phong phú và đa dạng hơn, ngoài các nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi từ các nhà tài trợ truyền thống có sự xuất hiện của các quỹ, ngân hàng khu vực hoặc toàn cầu như Quỹ Mekong - Nhật Bản về phát triển hạ tầng hiện đại, Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) và Ngân hàng Các nền kinh tế mới nổi (BRICS Bank),... Điều này sẽ mang lại nhiều cơ hội lựa chọn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Để tiếp cận với nguồn vốn ODA và các vốn vay ưu đãi, Đoàn giám sát cho rằng, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng về huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài; thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính theo quy định của Hiến pháp, Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản pháp luật khác.
Đồng thời, Đoàn giám sát yêu cầu xây dựng chiến lược, định hướng huy động, sử dụng vốn vay nước ngoài phù hợp với điều kiện nguồn vốn ODA, mức độ ưu đãi của các nguồn vốn các nhà tài trợ.
Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài cần được tính toán, cân nhắc, so sánh hiệu quả, chi phí so với vay trong nước, tránh lệ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, phải được đánh giá kỹ về hiệu quả kinh tế - xã hội và tác động đối với nợ công.
Bên cạnh đó, Đoàn giám sát cũng đề nghị giảm tỷ lệ cấp phát, tăng cường tỷ lệ cho vay lại; quản lý chặt chẽ việc bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quyết định đầu tư...
H.Vân
Theo baohaiquan.vn
Không ràng buộc trách nhiệm, "càng giải ngân nhanh, thất thoát và lãng phí càng lớn" "Nếu chỉ nới lỏng các quy định về quy trình, thủ tục đầu tư nhưng những ràng buộc trách nhiệm đối với những người ra quyết định và tổ chức thực thi không rõ ràng, thì càng giải ngân nhiều, nhanh thì thất thoát, lãng phí, nợ công sẽ ngày càng lớn" - đại biểu Vũ Tiến Lộc e ngại. Thu ngân sách...