Kí ức của người lính xe tăng 390
Thời điểm chứng kiến nội các của Dương Văn Minh đầu hàng, ông Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ số 1 xe tăng 390, lúc đó canh gác ngoài phòng họp tại Dinh Độc lập ngày 30/4/1975, dâng trào xúc động vì Chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn toàn thắng lợi, đất nước thu về một mối.
Nhập ngũ vào tháng 8/1971, lúc mới 18 tuổi, sau thời gian huấn luyện bộ binh khoảng 2 tháng, chàng trai trẻ Ngô Sỹ Nguyên được chuyển sang đơn vị tăng thiết giáp và được làm pháo thủ của xe tăng 390.
4 người lính xe tăng 390 chụp kỷ niệm tại phiên bản xe 390 (ông Nguyên, là người thứ 2 từ phải sang trái). Ảnh do nhân vật cung cấp.
Xe tăng 390 gồm có trung úy Vũ Đăng Toàn là chính trị viên đại đội; lái xe là trung sĩ Nguyễn Văn Tập; pháo thủ số 1 là trung sĩ Ngô Sỹ Nguyên; phó đại đội trưởng kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2, thiếu úy Lê Văn Phượng (lên thay pháo thủ số 2 bị thương).
Ngày 15/3, Lữ đoàn 203 xuất phát từ A Lưới (Huế) đi theo đường 14B, thị trấn Khe Tre, huyện Nam Đông, Thừa Thiên – Huế xuống đánh Núi Bông, Núi Nghệ và Mỏ Tàu và tiếp tục tiến đánh ra Huế.
“Ngày 25/3, chúng tôi đã tiến vào giải phóng Huế, sau đó được lệnh ra cửa Thuận An để chặn đường rút chạy của quân ngụy”, ông Nguyên nhớ lại.
Ngày 28/3, đơn vị ông Nguyên tiến vào giải phóng Đà Nẵng, sau đó tiếp tục củng cố đội hình hành quân theo miền duyên hải, đánh địch trong hành tiến.
Ngày 26/4, bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh, đơn vị của ông Nguyên được lệnh đánh mở đường vào căn cứ quân sự Nước Trong, nơi có trường sĩ quan thiết giáp của địch. Tới 12 giờ ngày 28/4, đơn vị đã giải phóng toàn bộ căn cứ Nước Trong, tạo mũi thọc sâu cho Quân đoàn 2.
“Lúc này đã rất gần Sài Gòn, hơn ai hết, những người lính tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cảm nhận được ngày đất nước thống nhất đã đến rất gần. Trước đó, Chính ủy Lữ đoàn 203 Bùi Văn Tùng đã căn cứ vào bản đồ xe buýt Sài Gòn cho đắp sa bàn để những người lính chúng tôi dễ hình dung về hướng đi vào Sài Gòn”, ông Nguyên kể.
Sáng 30/4, Tiểu đoàn 1 do đồng chí Ngô Văn Nhỡ làm tiểu đoàn trưởng được giao nhiệm vụ chủ công mở đường vào Sài Gòn. Tuy nhiên, từ tổng kho Long Bình, qua cầu Đồng Nai, ngã ba Thủ Đức, ngã ba Thủ Dầu Một đến cầu Sài Gòn, địch chống trả rất quyết liệt.
“Lúc đó là tờ mờ sáng, đạn bay rít xung quanh, tuy nhiên không ai nao núng. Khi nghe tin đồng chí Tiểu đoàn trưởng Ngô Quang Nhỡ hy sinh khi chỉ huy càng khiến đơn vị quyết tiến lên”, ông Nguyên nói tiếp.
Video đang HOT
Xe tăng đi đầu tiên của tiểu đoàn mang số hiệu 866 do đồng chí Lê Tiến Hùng phụ trách, nhưng qua cầu Sài Gòn thì bị trúng đạn của địch.
Xe tăng 390 đi ngay sau vẫn tiếp tục tiến lên giữa sự phản kích quyết lịch của địch, vừa đi vừa phối hợp với các xe tăng khác hợp đồng tác chiến, dập tắt các điểm hỏa lực của địch. Khi tới ngã tư Hàng Xanh, lực lượng phản kích của địch gồm có xe M113, xe bọc thép và GMC đánh trả ác liệt.
“Vừa nhìn thấy lực lượng địch, đồng chí Toàn và Tập hô: “Nguyên, Nguyên… mục tiêu!”. Bình tĩnh ngắm bắn, tôi đã tiêu diệt 2 xe M113 và nhiều GMC chở lính địch”, ông Nguyên nhớ lại.
“Vượt qua Hàng Xanh thì đường phố vắng hoe, xe chúng tôi tiếp tục tiến lên theo trí nhớ về hướng dẫn sa bàn trước đó. Đến một ngã tư, chúng tôi hỏi đường, họ bảo lạc rồi nên quay lại. Chúng tôi lùi lại và chuyển hướng tiến về Dinh Độc lập, gặp xe tăng 843 của trung úy Bùi Quang Thận ở phía trước”, ông Nguyên kể.
“Xe của đồng chí Thận đang đi thì rẽ sang cổng trái rồi khựng lại ở cổng Dinh Độc lập. Thấy vậy, đồng chí Tập lái xe hỏi có nên vào hay dừng lại, thì đồng chí Toàn nói: “Cứ tông vào đi”. Ngay lập tức, lái xe Tập nhấn ga vọt lên, húc tung cánh cổng chính của Dinh Độc lập và tiếp tục tiến thẳng vào sân. Chúng tôi vào trong sân, một đội hình xe tăng bọc thép của địch còn nguyên. Ngoảnh lại phía sau, chúng tôi thấy đồng chí Thận cầm cờ chạy theo xe tăng 390. Sau đó xe tăng 390 chạy chậm lại và yểm trợ đồng chí Thận. Đồng chí Toàn, trưởng xe 390 cũng cầm theo khẩu AK nhảy xuống xe chạy theo đồng chí Thận”, ông Nguyên kể lại.
Pháo thủ Ngô Sỹ Nguyên trên xe tăng 390 (ảnh do nhân vật cung cấp).
Vào đến Dinh Độc lập, Chính trị viên Toàn dồn tất cả nội các của Dương Văn Minh vào trong phòng lớn. Lúc này, trung úy Ngô Sỹ Nguyên cũng lên tới nơi và đứng gác ở cửa phòng. Lái xe Nguyễn Văn Tập ở lại giữ xe tăng, thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi trong xe giữ khẩu 12 ly 7 chĩa lên phía lá cờ trên nóc dinh để yểm trợ cho Bùi Quang Thận cắm cờ.
Sau khi anh Thận cắm cờ, nhiều người lính chúng tôi cảm xúc dâng lên khó tả.
Nhiều người hô: “Giải phóng đất nước rồi các đồng chí, các bạn ơi. Còn gì sung sướng bằng! Tất cả đều vỡ òa niềm vui trong nước mắt”, ông Nguyên xúc động nhớ lại.
Khoảng một tiếng sau, Đại đội 4 của ông Nguyên nhận lệnh ra cảng Bạch Đằng để bảo vệ cảng, kho hàng. Ở đó chừng 4 – 5 hôm, đại đội rút về tổng kho Long Bình, đóng doanh trại, xây dựng đơn vị, sửa chữa xe, lau chùi súng pháo, bổ sung đạn dược, xăng dầu… sẵn sàng chiến đấu.
“Cứ mỗi dịp tháng 4 về, dư âm của những ngày tháng 4 năm 1975 lại ùa về. Chúng tôi rất tự hào vì kíp xe tăng 390 lúc đó đã góp phần nhỏ bé để giải phóng đất nước”, ông Nguyên tự hào tâm sự.
Xuân Minh
Theo Dantri
Lính bộ binh vào Dinh Độc Lập
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh 9 cùng Trung đoàn Bộ binh 24 (304) và một số đơn vị phối thuộc có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt căn cứ Nước Trong, mắt xích trọng yếu trong tuyến phòng thủ cơ bản cuối cùng của quân ngụy Sài Gòn.
Đại đội 6 bộ binh là đơn vị thọc sâu "cảm tử", tiêu biểu cho chủ lực quân giải phóng vào Dinh Độc lập đầu tiên trưa 30-4-1975...
1. Trước cửa ngõ Sài Gòn
Chiều 24-4-1975, địch phát hiện có lực lượng của ta, liền dùng bom, pháo ngăn chặn quyết liệt từ xa. Lữ đoàn thủy quân lục chiến cùng lực lượng tại chỗ tiến hành nhiều đợt phản kích nhằm phá thế bao vây của ta.
Trong giờ phút quan trọng, thiêng liêng của chiến dịch mang tên Bác giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, Trung tá Đào Duy Nhất - Chính ủy Trung đoàn Bộ binh 9 trao cho Trung úy Nguyễn Thiệu Tĩnh - Chính trị viên Tiểu đoàn 2 đơn vị chủ công lá cờ giải phóng mà nhân dân Phan Thiết tặng trung đoàn trên đường tiến công giải phóng tỉnh Phan Thiết.
4 giờ 30 phút ngày 26-4, bộ đội Trung đoàn 9, Trung đoàn 24 đã có mặt ở vị trí xuất phát xung phong, ai cũng thấm mệt. Tuy vậy ở các hướng, các mũi, đặc biệt trên hướng chủ yếu mà Đại đội 6 do Thiếu úy Đại đội trưởng Trần Quốc Ái(1) chỉ huy, anh em chiến sĩ rất háo hức vừa chờ lệnh, vừa chủ động gia cố thêm công sự, ngụy trang. Trời nắng như thiêu như đốt, nhiều chiến sĩ phải ngậm cỏ gianh cho qua cơn khát, bụng đói nhưng không một ai dám bóc lương khô vì bi đông đã cạn nước. Trong khi pháo binh địch liên tục bắn phá, đồng thời lực lượng thám báo, biệt kích tăng cường lùng sục, trước tiền duyên dải phòng thủ nhằm phát hiện lực lượng ta.
17 giờ ngày 26-4-1975, trên toàn tuyến phòng thủ phía đông nam Sài Gòn đột nhiên rung chuyển bởi hàng ngàn quả đạn pháo các cỡ của quân ta dồn dập trút bão lửa xuống đầu quân ngụy báo hiệu giờ nổ súng tiến công của quân ta trên mặt trận phía đông nam bắt đầu.
Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ảnh tư liệu.
Dứt pháo bắn chuẩn bị, chiến sĩ Đại đội 6 và các đơn vị bạn nhanh chóng vận động, tiêu diệt các tiền đồn, mở tung nhiều lớp hàng rào, tiến vào bên trong trường Thiết giáp. Địch dùng hỏa lực và xe tăng ngăn chặn quyết liệt; Đại đội trưởng ra lệnh phân đội DKZ bắn cháy 1 xe tăng M41; B40, B41 của đại đội diệt 3 hỏa điểm đại liên... Tận dụng ưu thế, Trung đội 2 lập tức lao lên mở cửa, nhưng vấp phải hai hàng rào cuối cùng, trong tay chỉ còn 1 quả bộc phá khối 3kg nhưng hỏng kíp nổ, lập tức Đinh Quang Vịnh dùng quả lựu đạn mỏ vịt U.S cặp vào bộc phá để phát lửa kích thích khối bộc phá. Sau đó, Vịnh ôm bộc phá lao lên đặt quả bộc phá vào chân tường và giật chốt lựu đạn. Một tiếng nổ rền vang phá tung khu nhà và hàng rào nơi địch đang cố thủ. Còn lại hàng rào đơn cuối cùng, Tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Tình và chiến sĩ Trần Đức Hồng lao tới nâng rào lên, để bộ đội vượt qua lao thẳng vào Sở chỉ huy trường Thiết giáp.
Sau 1 giờ 30 phút chiến đấu kiên cường, mưu lược, Đại đội 6 và các đơn vị Trung đoàn 9, Trung đoàn 24, đã làm chủ trường Thiết giáp, trường Bộ binh và trường Biệt kích dù. Trong trận đánh ác liệt này, Trung đoàn 9 bắt 60 tên ngụy, bắn cháy 20 xe tăng - xe bọc thép, bắn rơi 2 máy bay trực thăng. Góp phần vào chiến công đó có cán bộ, chiến sĩ Đại đội 6 quả cảm.
Do quá sốc vì vị trí quan trọng đã bị mất, địch liều lĩnh tổ chức liên tiếp các đợt phản kích, nhằm chiếm lại căn cứ Nước Trong. Địch tung vào trận các lực lượng tinh nhuệ nhất để phản kích. Tiểu đoàn 7 thuộc Lữ đoàn dù 2; Tiểu đoàn 1 Lữ 147 thủy Quân lục chiến; 1 thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép, quyết chiếm lại bằng được trước trưa ngày 27-4. Với đòn hỏa lực mạnh, kết hợp bộ binh, xe tăng - thiết giáp đánh phủ đầu 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9, gây cho ta nhiều thiệt hại. Trước tình hình đó, Trung tá Trung đoàn trưởng Hoàng Chính cho ngừng tiến công địch trong hành tiến, bộ đội chuyển sang củng cố công sự, điều chỉnh kế hoạch tác chiến, sẵn sàng chặn đòn tiến công của địch. Do ta thay đổi chiến thuật rất hợp lý nên quân ngụy trong hành tiến đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của ta, ngụy quân thương vong lớn, sức tấn công không còn mạnh mẽ nữa. Phát hiện quân ngụy nhụt ý chí, quân ta phản công, buộc địch phải lùi về phía sau khoảng 1km. Đợt tiến công lớn nhất của ngụy quân trong ngày 27-4 bị bẻ gãy, kế hoạch chiếm lại căn cứ Nước Trong của ngụy quân hoàn toàn thất bại.
Vào khoảng 17 giờ ngày 28-4, chỉ huy Tiểu đoàn 2 giao nhiệm vụ cho Đại đội trưởng Đại đội 6 chỉ huy bộ đội bí mật luồn sâu chiếm chốt khu vực Đường 15 (ngã 3 Thái Lan), phía sau tuyến phòng ngự của quân ngụy. Suốt đêm 27, rạng sáng 28-4, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 6 khẩn trương củng cố trận địa, chốt chặn, thì cũng là lúc đội hình Tiểu đoàn 2, cùng các tiểu đoàn trong đội hình Trung đoàn 9 đồng loạt tiến công, phá vỡ trận tuyến phòng ngự trước cửa ngõ Sài Gòn của ngụy quân, tiêu diệt nhiều xe tăng - thiết giáp, xe cơ giới, sinh lực và hỏa lực của ngụy quân. Khi địch lui đội hình về phía sau, Đại đội 6 bất ngờ nổ súng, khiến ngụy quân hoang mang tột độ. Thừa thắng, Đại đội 6 chia cắt đội hình, chặn đường tiếp viện của ngụy quân, làm chủ khu vực chốt cầu sông Buông Long Thành, Đồng Nai theo lệnh của chỉ huy Tiểu đoàn 2.
13 giờ ngày 29-4, Đại đội 4, Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2 do Trung úy Bùi Quang Thận chỉ huy, đề nghị Đại đội trưởng Đại đội 6 phối hợp chiến đấu. Cùng lúc Đại đội trưởng Đại đội 6 nhận được lệnh của Đại úy Trần Văn Tàu - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2. "Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn đồng ý để Đại đội 6 bộ binh tham gia cùng xe tăng Lữ đoàn 203, phát triển tiến công vào Sài Gòn". Cán bộ, chiến sĩ đại đội quá vui mừng khi nhận được lệnh phối hợp với xe tăng Lữ đoàn 203. Cầu sông Buông bị phá sập. Đại đội 6 được lệnh cùng Đại đội 17 công binh khắc phục, để xe tăng vượt qua cầu. Khi bộ đội đang khẩn trương sửa chữa cầu thì 3 chiếc xe con từ phía sau lao tới, mọi người nhận ra hai người cao lớn, vạm vỡ, nước da hồng hào bước xuống và tiến tới cầu, đó là Thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An và Thượng tá quyền sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 Nguyễn Ân. Sau khi kiểm tra cây cầu, thấy cầu chưa hỏng nặng, quyền Sư đoàn trưởng xin chỉ thị của Tư lệnh Quân đoàn, rồi rảo bước tới các chiến sĩ công binh nói: "Các cậu cố gắng nhé! Đảm bảo cho xe tăng sớm vượt cầu tiến vào Sài Gòn".
2. Vào Dinh Độc Lập
Sau 4 ngày đêm chiến đấu liên tục, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 9, trong đó có Đại đội 6, đơn vị luôn đảm trách nhiệm vụ khó khăn, cơ động nhanh, táo bạo chiến đấu theo yêu cầu khẩn trương của chiến dịch. Do không có được sự chuẩn bị chu đáo nên bộ đội bị thương vong nhiều, cơ số đạn tiêu hao quá nửa, lương thực, thực phẩm chủ yếu lấy của địch để dùng. Tuy nhiên, với niềm tin chiến thắng cả Đại đội 4 Xe tăng và Đại đội 6 Bộ binh luôn gắn bó, chia lửa, vượt qua thử thách xốc tới, thể hiện đúng bản lĩnh của lực lượng thọc sâu đánh tan các chốt của quân ngụy ngăn chặn bước tiến của quân ta ở phía nam cầu sông Buông, sau đó đánh chiếm cầu sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh chiếm đầu cầu Thị Nghè (sông Sài Gòn), đập tan các chốt chặn phòng ngự trên cầu, bắn cháy 2 tàu chiến trên sông. Đến 10 giờ ngày 30-4, mũi thọc sâu của Đại đội 6 vẫn tiếp tục ngồi trên 2 xe tăng 843 và 390 do Trung úy Đại đội trưởng Bùi Quang Thận và Trung úy Chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn chỉ huy. Quân số của Đại đội 6 lúc này chỉ còn 15 tay súng. Các chiến sĩ bộ binh, xe tăng như những "Cảm tử quân" lao thẳng tới khu vực Hàng Xanh.
10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975, chiếc xe tăng T54b, số hiệu 843 dẫn đầu đội hình thọc sâu khi đến cổng Dinh Độc Lập liền húc thẳng vào cổng phụ và bị mắc kẹt. Chiếc xe tăng thứ hai, số hiệu 390 do Chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy ra lệnh cho lái xe Nguyễn Văn Tập điều khiển xe húc tung cánh cổng Dinh Độc Lập tiến thẳng vào trong sân dinh. Ngay đầu cổng Dinh Độc Lập xuất hiện một nữ nhà báo nước ngoài đang chăm chú ghi hình(2). Trong sân dinh có 30 lính vệ binh đang sẵn sàng hạ vũ khí đầu hàng. Các chiến sĩ Đại đội 6 nhảy xuống khỏi 2 xe tăng 843 và 390 gồm: Trần Đức Tình, Trần Văn Tàu, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Văn Sản, Trần Mạnh Đề, Chử Đức Hải, Nguyễn Văn Đấu được lệnh Thiếu úy Chính trị viên đại đội Nguyễn Duy Ân, gom toàn bộ số lính ngụy đưa vào góc sân dinh. Khi thấy Trung úy - Đại đội trưởng xe tăng từ xe 843 cầm lá cờ giải phóng, vượt qua sân vào Dinh Độc Lập để cắm cờ trên đỉnh nóc dinh Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, thì Trần Đức Tình, Bùi Huy Linh liền lao theo. Khi tới sân thượng nơi cột cờ, Tình liền rút dao găm, chặt đứt đầu dây ghì cột cờ rồi từ từ hạ lá cờ vàng 3 sọc đỏ xuống để đồng chí Bùi Quang Thận thay lá cờ giải phóng rồi kéo lên đỉnh cột đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.
Ít phút sau, Trung đoàn phó Trung đoàn 66, Đại úy Phạm Xuân Thệ và một số sĩ quan của cơ quan trung đoàn trên chiếc xe Jeép lao thẳng vào sân dinh. Ngay sau đó, Phạm Xuân Thệ cùng một số cán bộ, chiến sĩ áp giải Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ngồi trên xe Jeép đến Đài Phát thanh Sài Gòn. Trong lúc Trung đoàn phó Thệ và các trợ lý của mình soạn thảo nội dung lời tuyên bố đầu hàng, thì Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203 Trung tá Bùi Tùng xuất hiện. Mọi người cùng thống nhất soạn thảo văn bản đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc và văn bản thay mặt quân giải phóng chấp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống quân lực Việt Nam cộng hòa do Chính ủy Bùi Tùng soạn thảo và đọc trước làn sóng điện Đài Phát thanh Sài Gòn.
13 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Đại đội 6 được lệnh rời khỏi Dinh Độc Lập ra đánh chiếm Tân Cảng, kết thúc một chặng đường chiến đấu hào hùng. Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 6 rất tự hào, vui sướng là đơn vị bộ binh chủ lực đầu tiên của Quân giải phóng có mặt tại Dinh Độc Lập.
Theo Thiếu tướng LÊ MÃ LƯƠNG
Báo Quân đội nhân dân
"Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập" Ngày 30/4/1975, Sài Gòn giải phóng, đất nước thống nhất. Chiến thắng như huyền thoại ấy thấm bao máu và nước mắt; biết bao hy sinh, cống hiến của lớp lớp người đi trước... Ngày 17/3, Thành ủy TPHCM đã tổ chức hội thảo khoa học: "Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập". Đây là...