Khuyến cáo người dân thận trọng khi mua máy đo nồng độ oxy trong máu SpO2
Ghi nhận từ Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương), thời gian qua một số thông tin từ người tiêu dùng phản ánh đến Bộ Công Thương liên quan về giá và chất lượng của các loại máy đo nồng độ oxy trong máu ( SpO2).
Đây là thiết bị được sử dụng để theo dõi độ bão hòa oxy, đo mức oxy trong máu của một người mà không cần sử dụng bất kỳ phương tiện xâm lấn nào.
Trước khi dịch bệnh COVID-19 xuất hiện, các loại máy đo nồng độ oxy trong máu SpO2 chỉ bày bán tại các cửa hàng thiết bị y tế chuyên dụng dành cho những người mắc bệnh lý tim mạch, phổi, hô hấp. Đối với những người mắc COVID-19 khi trở nặng thường có biểu hiện suy hô hấp, máy đo SpO2 là một công cụ phát hiện tình trạng thiếu oxy trong máu để sớm có hướng xử lý cho bệnh nhân.
Nắm bắt được nhu cầu của nhiều người tiêu dùng trong việc mua, sử dụng các thiết bị SpO2 nên hiện nay, trên thị trường có rất nhiều tổ chức, cá nhân đang cung cấp các thiết bị SpO2.
Để bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng lưu ý, máy đo SpO2 chỉ là một trong những phương tiện giúp nhận biết sớm các trường hợp F0 có dấu hiệu chuyển nặng.
Chỉ số SpO2 cần được đo nhiều lần để theo dõi và không chỉ dựa vào SpO2 để chẩn đoán bệnh hoặc loại trừ COVID-19. Người tiêu dùng vẫn cần theo dõi sát các triệu chứng khác của cơ thể, khi có bất thường cần báo nhân viên y tế ngay.
Video đang HOT
Bên cạnh đó, người tiêu dùng cần lựa chọn loại máy đo nồng độ oxy trong máu SpO2 phù hợp với mục đích sử dụng. Mỗi hãng, mỗi dòng máy sẽ có cấu tạo, chất liệu đầu dò khác nhau dẫn tới độ chính xác, độ bền cũng khác nhau. Các loại máy dùng ở bệnh viện được kiểm định kĩ thuật và độ chính xác cao so với các máy cá nhân có thể tự mua ở nhà thuốc.
Ngoài ra, các thiết bị điện tử có tích hợp đo SpO2 như đồng hồ thông minh, thiết bị theo dõi luyện tập thể dục thể thao thường không được kiểm định y khoa, không dùng được trong các mục đích y khoa như chẩn đoán và theo dõi bệnh.
Trước khi mua, người tiêu dùng cần tìm hiểu kĩ nguồn gốc xuất xứ của các loại máy đo nồng độ oxy trong máu SpO2. Theo đó, người tiêu dùng có thể chụp tem của sản phẩm, khảo sát trên mạng để tìm hiểu thông tin sản phẩm bao gồm nhà sản xuất, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, phản hồi của những người tiêu dùng khác…
Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, thông thường nếu nhà sản xuất uy tín thì trên website của doanh nghiệp sẽ công bố áp dụng tiêu chuẩn ISO 13485 cho sản phẩm đó.
Vì vậy, người tiêu dùng nên lựa chọn máy theo các nhãn hàng uy tín, có thông tin đầy đủ về đơn vị sản xuất, đơn vị bán, chế độ bảo hành rõ ràng, giá thành được niêm yết công khai và mua tại cơ sở kinh doanh được cấp phép.
Trong trường hợp phát hiện các cá nhân, tổ chức rao bán các loại máy đo nồng độ oxy trong máu SpO2 không rõ nguồn gốc xuất xứ và đảm bảo chất lượng, người tiêu dùng có thể phản ánh tới các cơ quan quản lý nhà nước về y tế, quản lý thị trường hoặc cơ quan bảo vệ người tiêu dùng tại địa phương để được hỗ trợ.
VCCI: Thận trọng với đề xuất sửa đổi quy định kinh doanh xuất khẩu gạo
VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét lại một số quy định liên quan đến kinh doanh xuất khẩu gạo.
Phản hồi đề nghị của Bộ Công Thương về việc góp ý hoàn thiện dự thảo đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, hướng tiếp cận việc sửa đổi, bổ sung chính sách như vậy là phù hợp, bởi dự thảo được hình thành xuất phát từ những điểm hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi Nghị định 107. Tuy nhiên, để đảm bảo các đề xuất này vừa đáp ứng được mục tiêu quản lý nhà nước, vừa đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét lại một số quy định liên quan đến kinh doanh xuất khẩu gạo.
Cụ thể như, dự thảo đề xuất sửa đổi điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng: "quy định về sức chứa tối thiểu của kho chuyên dùng để chứa thóc, gạo và công suất tối thiểu của cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo; có thể cân nhắc việc quy định như Nghị định 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, để tận dụng nguồn lực xã hội, cơ sở vật chất đã được xây dựng, tránh phát sinh thêm chi phí cho thương nhân, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo tại Nghị định 107 được đánh giá là một bước tiến trong cải cách điều kiện kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi hơn cho các thương nhân trong hoạt động xuất khẩu gạo - loại hàng hóa mà Việt Nam luôn có thế mạnh. Việc đề xuất sửa đổi quay trở lại với điều kiện kinh doanh về diện tích tối thiểu của kho chứa thóc, công suất tối thiểu của cơ sở xay, xát, chế biến thóc gạo - vốn là những điều kiện mà Nghị định 107 đã từng bãi bỏ, theo VCCI là một thay đổi rất lớn và là tín hiệu theo hướng không tích cực về sự thay đổi môi trường kinh doanh Việt Nam vì thế ngành công thương cần cân nhắc và thận trọng.
Bởi lẽ, xét về yêu cầu đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, thì đây là mục tiêu chính đáng và phù hợp khi quản lý đối với hoạt động kinh doanh liên quan đến thực phẩm. Song theo Nghị định 107, thương nhân xuất khẩu gạo phải có "kho chuyên dùng để chứa thóc, gạo phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kho chứa thóc, gạo do cơ quan có thẩm quyền ban hành"; "cơ sở xay, xát hoặc cơ sở chế biến thóc, gạo phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về kho chứa và cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo do cơ quan có thẩm quyền ban hành". Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước đã kiểm soát vấn đề chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm của gạo xuất khẩu thông qua yêu cầu về cơ sở vật chất của thương nhân xuất khẩu gạo phải đáp ứng theo pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Dự thảo sửa đổi lại chưa đưa ra thông tin để thuyết phục rằng, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo có quy mô tối thiểu 5.000 tấn thóc; công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ thì sẽ đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm hơn là các cơ sở có quy mô, công suất bé hơn, trong khi tất cả các cơ sở này đều đáp ứng về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Hơn nữa, nếu chỉ nhằm chuẩn hóa việc đầu tư cơ sở hạ tầng đầu vào để đảm bảo sự đồng bộ về năng lực chế biến của cả ngành thì mục tiêu này là chưa đủ rõ ràng. Không rõ năng lực chế biến của cả ngành được xác định ở đâu, trên cơ sở nào? Dự thảo cũng chưa cung cấp các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp có cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo có quy mô tối thiểu bé hơn 5.000 tấn thóc; công suất tối thiểu bé hơn 10 tấn thóc/giờ như thế nào? Và liệu công cụ quản lý bằng pháp luật cạnh tranh có giải quyết được tình trạng này không?
Ngoài ra, việc quay trở lại với điều kiện về quy mô vốn đã được bãi bỏ tại Nghị định 107 sẽ dẫn tới hiện tượng rất nhiều doanh nghiệp sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường, tạo ra rào cản cản trở doanh nghiệp quy mô vừa và bé gia nhập thị trường. Điều này có thể tác động lớn đến thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu gạo. Dự thảo cũng chưa đánh giá tác động đối với các chủ thể này trong khi đây là nội dung rất quan trọng để xem xét đến tính phù hợp của đề xuất quy định điều kiện kinh doanh theo hướng khắt khe hơn.
Tóm lại, nội dung liên quan tới điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo là một đề xuất thay đổi lớn trong quy định tại Nghị định 107 và có tác động rất lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành này. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá một cách thận trọng và cung cấp đầy đủ, rõ ràng và chi tiết hơn những luận cứ, cơ sở cho những vấn đề nêu trên.
ADVERTISING
X
Riêng về thời hạn giấy chứng nhận, dự thảo đề xuất sửa đổi thời hạn phù hợp với thời hạn của hợp đồng thuê kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo của thương nhận tại thời điểm nộp hồ sơ cấp giấy chứng nhận. Điều này khiến VCCI quan ngại có thể tạo sự bất bình đẳng giữa các thương nhân được cấp phép. Bởi lẽ, để đáp ứng điều kiện có kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo, thương nhân có thể thuê hoặc có quyền sở hữu các cơ sở vật chất này. Như vậy, nếu theo đề xuất tại dự thảo thì đối với những thương nhân thuê thì giấy chứng nhận sẽ có thời hạn; còn những thương nhân có quyền sở hữu các cơ sở vật chất thì giấy chứng nhận sẽ không có thời hạn hay là thời hạn sẽ xác định như nào?
Cùng đáp ứng điều kiện kinh doanh và được cấp giấy phép nhưng thời hạn của giấy phép của các thương nhân lại khác nhau tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể này, ít nhất ở việc các thương nhân có Giấy chứng nhận có thời hạn sẽ phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính hơn. Mỗi khi thời hạn giấy chứng nhận hết, họ phải thực hiện thủ tục cấp lại, gia hạn. Điều này cũng có thể kéo đến nguy cơ, thương nhân không được cấp phép lại và bị loại ra khỏi thị trường.
Hơn nữa, hợp đồng thuê kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo là giao dịch dân sự. Thời hạn của hợp đồng là do hai bên thỏa thuận và có thể bị điều chỉnh hoặc thay đổi bất kỳ lúc nào. Như vậy, thời hạn trong giấy chứng nhận sẽ phải thay đổi liên tục. Điều này vừa tạo ra nhiều thủ tục hành chính, vì doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục để điều chỉnh thời hạn giấy chứng nhận theo thời hạn hợp đồng, lại vừa khó quản lý từ phía cơ quan nhà nước khi phải đối soát giữa thời hạn hợp đồng và thời hạn của giấy chứng nhận.
Dự thảo đề xuất bổ sung chế tài tạm dừng thực hiện thủ tục hải quan đối với các lô gạo xuất khẩu nhập khẩu của thương nhân thuộc trường hợp thực hiện không đúng, không đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định. VCCI cho rằng, chế tài này là quá nặng và cần xem xét lại. Vì trong các quy định liên quan đến xử lý vi phạm hành chính, các hành vi vi phạm nghĩa vụ báo cáo chế tài xử phạt thường không áp dụng biện pháp dừng hoạt động kinh doanh. Dừng thực hiện thủ tục hải quan đối với lô gạo xuất khẩu, nhập khẩu được xem là dừng hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của thương nhân.
Do đó, từ những phân tích trên, VCCI cho rằng, cơ quan soạn thảo nên bỏ đề xuất sửa đổi thời hạn giấy chứng nhận và xem xét việc bổ sung chế tài xử lý vi phạm liên quan tới chế độ báo cáo.
Bảo vệ người tiêu dùng khi sử dụng các dịch vụ y tế điện tử Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) vừa đưa ra 4 khuyến nghị đối với những cơ quan, tổ chức có liên quan nhằm tăng cường lợi ích và hiệu quả của hệ thống y tế điện tử cũng như cần sự phối hợp của nhiều chủ thể, nhất là các cơ quan, tổ chức về y tế...