Khung an toàn tài chính của công ty chứng khoán còn rộng
Dư nợ cho vay ký quỹ trên vốn chủ sở hữu cũng như hệ số nợ vay trên vốn chủ sở hữu của nhiều công ty chứng khoán đang ở mức thấp so với quy định hiện hành.
Dòng tiền cho vay giao dịch ký quỹ thường tỷ lệ thuận với mức độ giao dịch của thị trường.
TOP 10 có dư nợ margin gần 53.000 tỷ đồng
Thống kê của ầu tư Chứng khoán cho thấy, tính đến cuối quý II/2020, tổng dư nợ margin của Top 10 công ty chứng khoán có dư nợ margin lớn nhất đạt 52.937 tỷ đồng, tăng hơn 5.000 tỷ đồng so với quý I/2020, tức tăng khoảng 10%.
Trong đó, nợ vay ký quỹ/vốn chủ sở hữu quý II/2020 đạt 64,5%, tăng nhẹ so với quý I/2020, còn tỷ lệ nợ vay ký quỹ/tổng tài sản đạt 33,8%, tăng nhẹ so với quý I/2020 nhưng giảm so với cùng kỳ năm 2019 (xem bảng).
Tỷ lệ dư nợ margin của Top 10 CTCK trong 5 quý liên tiếp.
Có thể thấy, các hệ số an toàn vốn của ngành chứng khoán tăng nhẹ, nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với năm 2019 khi nhiều công ty chứng khoán đã tiến hành tăng vốn trong năm 2019 và 2020. Trong thời gian tới, hoạt động tăng vốn của khối công ty chứng khoán sẽ tiếp tục diễn ra, đặc biệt là ở khối công ty chứng khoán nước ngoài.
Video đang HOT
Hệ số nợ nay/vốn chủ sở hữu.
Quán quân về dư nợ cho vay margin và tạm ứng tiền bán chứng khoán đang thuộc về công ty chứng khoán Mirae Asset, lên tới 8.575 tỷ đồng tính tại cuối quý II/2020, tức tăng 1.400 tỷ đồng so với quý trước và cũng là mức dư nợ margin lớn nhất từ trước đến nay đối với một công ty chứng khoán.
Top 10 công ty chứng khoán có dư nợ margin lớn nhất hiện nay đang chiếm tới hơn 80% tổng dư nợ margin toàn thị trường. Trong đó, một số công ty chứng khoán có diễn biến tăng mạnh dòng tiền margin như ACBS tăng 50%, VPBS tăng 40%…
Hệ số nợ nay/vốn chủ sở hữu của TOP 10 CTCK có tài sản lớn nhất.
Như chia sẻ của ông Trịnh Thanh Cần, Tổng giám đốc ACBS, dòng tiền cho vay margin thường tỷ lệ thuận với mức độ giao dịch của thị trường. Quý II/2020 là thời điểm TTCK Việt Nam phục hồi mạnh kể từ thời điểm dịch bệnh Covid-19 bùng phát lần đầu, trong đó giao dịch tập trung chính vào 2 thành phần.
Thứ nhất, đó là các nhà đầu tư đại chúng, sử dụng đòn bẩy để tăng cơ hội đầu tư kiếm lời trong ngắn hạn.
Thứ hai là cổ đông lớn của nhiều doanh nghiệp có nhu cầu giao dịch lớn. Nhu cầu dòng tiền vay lớn hơn, khiến các công ty chứng khoán mạnh tay trong cho vay margin.
Tuy nhiên, theo Tổng giám đốc ACBS, bản thân công ty ông cũng như các công ty khác đều phải giữ tỷ lệ an toàn tài chính trong giới hạn cho phép.
Sẽ làm mới quy định về an toàn tài chính
An toàn tài chính đối với các công ty chứng khoán là vấn đề được cơ quan quản lý quan tâm hàng đầu. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang xây dựng dự thảo Thông tư mới, sửa đổi, bổ sung Thông tư 87/2017/TT-BTC về an toàn tài chính, nhằm đánh giá chính xác hơn tỷ lệ an toàn tài chính của tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Từ việc nắm bắt sức khỏe tài chính, nhà quản lý sẽ phân loại khối công ty chứng khoán và áp dụng các biện pháp cơ cấu lại cho phù hợp với ề án cơ cấu lại TTCK và thị trường bảo hiểm đến 2020 và định hướng đến 2025 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định mới nhằm giúp đánh giá và tăng cường năng lực quản trị rủi ro cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam.
Mặc dù chỉ tiêu an toàn tài chính không phản ánh hết sức khỏe của một công ty chứng khoán, nhưng là chỉ báo rất quan trọng nói lên tính thanh khoản, khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ và rủi ro của công ty chứng khoán.
Hiện tại, Top công ty chứng khoán có tỷ lệ nợ vay ký quỹ/vốn chủ sở hữu cao nổi bật là các công ty chứng khoán Hàn Quốc với việc đẩy mạnh cho vay do lợi thế lãi suất rẻ và nguồn vốn hỗ trợ từ công ty mẹ nước ngoài.
ối với các công ty chứng khoán Hàn Quốc, việc chấp nhận rủi ro cao với danh mục cho vay đa dạng có thể khiến rủi ro mất vốn tăng trong điều kiện thị trường không thuận lợi.
Tuy nhiên với các công ty có vốn và tiềm lực mạnh, rủi ro tiềm năng này không đe dọa đến chiến lược phát triển chung.
Trong khi đó, với khối công ty trong nước, đây là bài toán khó giải khi phải cạnh tranh với lãi vay rẻ và phí giao dịch thấp của các công ty chứng khoán nước ngoài. Trong bối cảnh thị trường không thuận lợi, nhiều công ty có xu hướng hạ đòn bẩy và giảm vay so với chiến lược trong các quý gần nhất.
Kiểm soát đặc biệt tổ chức kinh doanh chứng khoán không an toàn tài chính
Bộ Tài chính đang dự thảo Thông tư quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính.
Theo dự thảo, vốn khả dụng của công ty chứng khoán gồm: Vốn góp của chủ sở hữu, không bao gồm vốn cổ phần ưu đãi hoàn lại (nếu có); thặng dư vốn cổ phần không bao gồm vốn cổ phần ưu đãi hoàn lại; vốn khác của chủ sở hữu; chênh lệch đánh giá tài sản theo giá trị hợp lý; chênh lệch tỷ giá hối đoái; quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ; quỹ dự phòng tài chính và rủi ro nghiệp vụ; quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu được trích lập phù hợp với quy định của pháp luật; lợi nhuận chưa phân phối...
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát trong các trường hợp sau:
a) Tỷ lệ vốn khả dụng từ 120% đến dưới 150% trong tất cả các kỳ báo cáo trong ba tháng liên tục; hoặc
b) Tỷ lệ vốn khả dụng đã được soát xét hoặc được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận từ 120% đến dưới 150%; hoặc
c) Báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính mà tổ chức kiểm toán được chấp thuận đưa ra ý kiến không chấp thuận (hoặc ý kiến trái ngược), từ chối đưa ra ý kiến (hoặc không thể đưa ra ý kiến), ý kiến ngoại trừ một số chỉ tiêu của báo cáo này mà nếu trừ các ảnh hưởng ngoại trừ ra khỏi vốn khả dụng sẽ dẫn tới tỷ lệ vốn khả dụng từ 120% đến dưới 150%.
Thời hạn kiểm soát không quá 12 tháng, kể từ ngày tổ chức kinh doanh chứng khoán bị đặt vào tình trạng kiểm soát.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét đưa Tổ chức kinh doanh chứng khoán ra khỏi tình trạng kiểm soát khi tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 180% trở lên trong ba tháng liên tục, trong đó tỷ lệ vốn khả dụng tại kỳ báo cáo cuối cùng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận và Tổ chức kinh doanh chứng khoán có văn bản đề nghị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về việc khắc phục tình trạng kiểm soát.
Kiểm soát đặc biệt
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra quyết định đặt tổ chức kinh doanh chứng khoán vào tình trạng kiểm soát đặc biệt trong các trường hợp sau:
a) Tỷ lệ vốn khả dụng do công ty tự tính hoặc đã được soát xét, kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận dưới 120%; hoặc
b) Không khắc phục được tình trạng kiểm soát trong thời hạn mười hai tháng quy định nêu trên.
c) Không thực hiện báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính trong hai kỳ báo cáo liên tiếp.
Thời hạn kiểm soát đặc biệt không quá bốn tháng, kể từ ngày tổ chức kinh doanh chứng khoán bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét đưa Tổ chức kinh doanh chứng khoán ra khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt khi tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 180% trở lên trong ba tháng liên tục...
Lợi nhuận SSI tăng trưởng 29% trong 6 tháng đầu năm 2020 Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI vừa công bố báo cáo tài chính riêng quý 2/2020, ghi nhận tổng doanh thu quý 2 đạt 1.379 tỷ đồng, tăng trưởng 85% và lợi nhuận trước thuế đạt 651,7 tỷ đồng, tăng trưởng 172% so với cùng kỳ năm 2019. Kết quả kinh doanh của SSI tăng trưởng mạnh nhờ sự hồi phục của...