Khốn cùng với vay trực tuyến (*): Siết chặt để tránh biến tướng
Các chuyên gia lẫn nhà quản lý đều cho rằng cho vay ngang hàng – P2P Lending – là một trong những loại hình phải có điều kiện kinh doanh
Ông TRẦN ĐẠI DƯƠNG, Giám đốc Công ty Interloan:
Cần hành lang pháp lý để tránh nhập nhằng
Từ góc độ doanh nghiệp (DN) hoạt động trong lĩnh vực P2P Lending, chúng tôi cũng đề xuất cơ quan quản lý cần sớm có hành lang pháp lý cho hoạt động này, nhằm định nghĩa rõ ràng những công ty hoạt động theo chuẩn như thế nào mới là P2P Lending. Điều này sẽ tránh nhập nhằng giữa các loại hình hoạt động khác, tránh bị lợi dụng biến tướng…
Các chuyên gia, doanh nghiệp đều mong sớm có hành lang pháp lý chặt chẽ để quản lý hoạt động cho vay ngang hàng, tránh những biến tướng không đáng có Ảnh: HOÀNG TRIỀU
Bản thân các DN hoạt động đúng theo P2P Lending cũng muốn kết nối vào hệ thống thông tin tín dụng quốc gia để có bức tranh toàn cảnh về tín dụng tiêu dùng. Đây là 2 điểm mấu chốt để một ngành có thể bắt đầu hoạt động, sau đó mới tới các tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể nhằm tạo ra sân chơi công bằng giữa các DN, cũng như bảo vệ khách hàng.
Ông ARTEM ANDREEV, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Tư vấn tài chính LGC (chủ app Doctor Đồng):
Có thể áp dụng kinh nghiệm từ Nga
Hoạt động cho vay ngang hàng dựa trên những nền tảng công nghệ số đang là xu hướng phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội, việc xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động cho vay ngang hàng tại Việt Nam là cần thiết.
Theo tôi, Việt Nam có thể áp dụng kinh nghiệm thực tiễn từ Nga khi xây dựng cơ chế điều tiết thị trường tài chính vi mô. Theo đó, ngân hàng trung ương quy định điều kiện về mức vốn tối thiểu của công ty tài chính, cũng như tiêu chuẩn bắt buộc đối với những người hoạt động trong lĩnh vực cung cấp nền tảng cho vay ngang hàng, yêu cầu về báo cáo cho tổ chức thông tin tín dụng quốc gia hay các quy định về bảo đảm khả năng thanh toán và quản lý rủi ro tín dụng.
Ngoài ra, cần tạo điều kiện để các bên tham gia hoạt động P2P Lending tiếp cận được hệ thống thông tin tín dụng quốc gia, nhằm hạn chế các rủi ro tín dụng, bảo đảm an toàn cho hoạt động cho vay.
Ông NGUYỄN MAI LONG, Giám đốc điều hành Easy Credit (Công ty Tài chính Điện lực – EVN Finance):
Video đang HOT
Uy tín là vấn đề quyết định
Các công ty cho vay ngang hàng ở Việt Nam đang phát triển khá nhanh thời gian qua, khi đáp ứng nhanh được một phần nhu cầu vốn mà các ngân hàng thương mại, công ty tài chính chưa đáp ứng kịp. Tuy nhiên, vì không chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước nên khách hàng vay tại các công ty này sẽ gặp nhiều rủi ro. Một số công ty P2P Lending hiện cho vay khách hàng và kiếm tiền từ các loại phí và lãi suất cao, không rõ ràng.
Trong dài hạn, uy tín sẽ là vấn đề quyết định cho các công ty P2P Lending có đi được đường dài khi người tiêu dùng hiểu rõ và thận trọng hơn về dịch vụ này. Về góc độ cạnh tranh, các công ty tài chính và ngân hàng thương mại cũng đã đề xuất cơ quan quản lý cần sớm có cơ chế, chính sách về pháp lý, quy định rõ ràng về loại hình này, đồng thời tuyên truyền thông tin để nâng cao nhận thức người dùng. Hiện các công ty P2P Lending đang cạnh tranh trực tiếp với chúng tôi – công ty tài chính – ở góc độ không công bằng về thông tin thiếu minh bạch với người dùng. Khách hàng có quyền lựa chọn vay ở tổ chức tài chính nào nhưng phải có thông tin rõ ràng, cũng như minh bạch về phí, lãi suất…
TS NGUYỄN TRÍ HIẾU, chuyên gia tài chính:
Phải thực hiện qua sàn
Tại một số quốc gia Âu – Mỹ, quy trình cho vay ngang hàng chuẩn mực thường được thực hiện thông qua sàn giao dịch. Theo đó, người vay đưa ra số tiền cần vay, thời hạn, lãi suất…; nhà cung cấp dịch vụ (DN fintech đóng vai trò trung gian) cân nhắc, đánh giá cho điểm tín dụng dựa trên những thông tin do người vay cung cấp và các nguồn thông tin tích hợp có sẵn để xác định mức lãi suất tương ứng với mức độ rủi ro của khoản vay rồi đăng tải lên trang web của mình.
Người cho vay tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại các đơn hàng đăng trên trang web của fintech để lựa chọn lãi suất và mức độ rủi ro phù hợp. Đến ngày trả nợ, người vay thanh toán vốn và lãi, người cho vay nhận vốn gốc và lãi suất thông qua tài khoản mở tại ngân hàng hợp tác với fintech
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là fintech không phải là tổ chức nhận tiền gửi của khách hàng, cũng không phải là người cho vay. Họ chỉ là trung gian kết nối, thu phí dịch vụ người đi vay và người cho vay nên họ không nhất thiết phải có tài sản bảo đảm bù đắp rủi ro, không phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Còn ngân hàng hợp tác với fintech chỉ đóng vai trò trung gian quản lý dòng tiền qua lại giữa người cho vay và người vay để thu phí chuyển tiền.
Về vai trò quản lý, hiện nay, Ngân hàng Nhà nước không quản lý các nhà cung cấp dịch vụ P2P Lengding. Bởi hoạt động fintech đích thực là cung cấp các giải pháp, dịch vụ kết nối người vay với người cho vay. Tuy nhiên, do hoạt động của fintech có liên quan đến tiền tệ nên gần đây, Ngân hàng Nhà nước đang nghiên cứu soạn thảo các quy định về cho vay ngang hàng. Hy vọng trong thời gian tới, các cơ quan quản lý sẽ ban hành khung pháp lý đối với P2P Lending gắn liền với hoạt động của các fintech.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ĐÀO MINH TÚ:
Phải có điều kiện
Cho vay ngang hàng là một trong những loại hình quan hệ trên cơ sở phát triển công nghệ hiện nay. Người cho vay, người vay “gặp nhau” qua một người làm dịch vụ đầu mối và dùng công nghệ để thực hiện. P2P Lending có những điểm rất tích cực khi công nghệ phát triển, giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế, khó khăn có nhu cầu vốn có thể gặp được trực tiếp người có tiền cho vay thông qua hệ thống công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, đằng sau nó cũng có không ít những vấn đề phức tạp, thậm chí có những biểu hiện, dấu hiệu lợi dụng có thể gây nên những thiệt hại cho cả người đi vay và người cho vay; có cả hiện tượng trá hình. Do đó, phải có sự quản lý của nhà nước. Ngân hàng Nhà nước đang cùng với các bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ xây dựng cơ chế quản lý với lĩnh vực này.
Ngân hàng Nhà nước xác định P2P Lending là một trong những loại hình phải có điều kiện kinh doanh. Nếu đơn vị nào đứng ra để tổ chức hoạt động này, kết nối giữa người đi vay và người cho vay, phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện.
THÁI PHƯƠNG – DƯƠNG NGỌC – CHÂU THY ghi
Theo NLĐ.vn
Nợ xấu ngân hàng: Những gam màu
Nỗi ám ảnh nợ xấu của các ngân hàng thời gian gần đây ghi nhận nhiều điểm đáng mừng nhờ sự nỗ lực không ngừng trong quá trình quản trị rủi ro và xử lý nợ. Dù vậy, chúng ta vẫn phải dũng cảm nhìn vào thực tế, đó là nợ xấu vẫn... chưa hết xấu.
Dù đạt được những kết quả tích cực nhưng vấn đề nợ xấu vẫn là "gánh nặng" lớn của hệ thống ngân hàng
Những con số khả quan
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, tính từ năm 2012 đến cuối tháng 6-2019, ước tính toàn hệ thống đã xử lý được 937.500 tỷ đồng nợ xấu. Riêng trong năm 2018, hệ thống đã xử lý được 163.140 tỷ đồng nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu được chính thức công bố trên bảng cân đối kế toán hệ thống ngân hàng giảm từ 2,1% (hồi tháng 6-2018) xuống còn 1,9% (vào tháng 6-2019). Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu tổng thể (bao gồm cả nợ xấu nội bảng và nợ xấu tại Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) và nợ được coi là có nguy cơ cao trở thành nợ xấu) giảm từ 6,9%/năm (vào giữa năm 2018) xuống còn 5,9%/năm (vào giữa năm 2019).
Theo khảo sát, mặc dù số tuyệt đối nợ xấu ở các ngân hàng hầu hết đều tăng, nhưng do tín dụng tăng nên tỉ lệ nợ xấu ở gần 2/3 số ngân hàng lại giảm. Điều này có nghĩa tốc độ tăng nợ xấu đang thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong khi đó, số dư trái phiếu VAMC tại các ngân hàng cũng đang có xu hướng sụt giảm, đặc biệt giảm mạnh tại một số ngân hàng như Agribank, VPBank, TPBank, Saigonbank... Tổng số nợ xấu tại VAMC của các ngân hàng ước đạt gần 144.500 tỷ đồng, giảm 4,1% so với cuối năm 2018. Trong đó, đã trích lập dự phòng hơn 31.300 tỷ đồng. Hai "ông lớn" ngân hàng thương mại Nhà nước là VietinBank và BIDV có số dư trái phiếu VAMC còn lần lượt 13.800 tỷ đồng và 12.800 tỷ đồng, trong khi đó Agribank có số dư cực thấp nhưng đã dự phòng thừa số dư trái phiếu VAMC.
Đặc biệt, có tới 7 ngân hàng đã chính thức sạch nợ tại VAMC, bao gồm: Vietcombank, Techcombank, MBBank, OCB, VIB, Nam A Bank và TPBank. Khi Basel II đang tới gần, các ngân hàng tiếp tục chạy đua để xử lý nợ xấu, đảm bảo chất lượng tài sản phù hợp. Vì vậy, số liệu nợ xấu tại các ngân hàng chắc chắn sẽ tiếp tục giảm mạnh trong thời gian tới.
Vẫn còn những "lấn cấn"
Dù đạt được những kết quả tích cực trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong vấn đề xử lý nợ xấu nhưng phải nhìn nhận một thực tế là nợ xấu ngân hàng vẫn còn... rất xấu. Dưới góc nhìn chuyên gia, Tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng phân tích: Cách đây 5 năm, các ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC và nhận về trái phiếu đặc biệt của VAMC. Sau đó, ngân hàng lại hạch toán trái phiếu này vào tài sản tốt, vì trái phiếu VAMC là tài sản rất ít rủi ro. "Như vậy, rõ ràng nợ xấu đã được "khoác áo mới", giúp tổng tài sản của ngân hàng thành tổng tài sản tốt. Như vậy là mình đã tự lừa mình" - vị chuyên gia nói.
Trên thực tế, nếu nợ xấu không thu hồi được sẽ trở thành chi phí bất thường, "ăn" vào lãi của ngân hàng. Nhưng vì một phần lớn đã được "đẩy" sang VAMC trong thời gian 5 năm hay 10 năm mà không bắt buộc phải hạch toán chi phí ngay trên bảng cân đối kết quả kinh doanh đã giúp "làm hồng" con số lợi nhuận ngân hàng.... Do đó, khi nhìn vào con số kết quả kinh doanh của ngân hàng vẫn còn thấy nhiều ẩn số.
Đơn cử như các khoản lãi phải thu. Hiện nay, các khoản lãi phải thu vẫn đang được tính vào lãi của các ngân hàng. Đơn cử như BIDV có khoản lãi phải thu cao nhất hệ thống, lên tới hơn 11.300 tỷ đồng; Vietcombank hơn 7.500 tỷ đồng... Riêng Vietinbank sau khi "cắn răng" thoái lãi dự thu thì con số này giảm mạnh từ trên 14.500 tỷ đồng về còn trên 6.900 tỷ đồng, lợi nhuận ngân hàng vì vậy cũng bị sụt giảm.
Theo quy định của Bộ Tài chính, sau 6 tháng, lãi dự thu nếu chưa thu được hoặc khi chuyển nợ quá hạn thì phải thoái ra. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều ngân hàng không chuyển nhóm nợ, và theo đó cũng không thoái lui lãi, bởi nếu làm vậy sẽ khiến nợ xấu tăng cao và lợi nhuận suy giảm. Bởi vậy, nhiều ngân hàng cứ "treo" khoản lãi phải thu từ năm này qua năm khác.
Dù đạt được những kết quả tích cực trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong vấn đề xử lý nợ xấu nhưng phải nhìn nhận một thực tế là nợ xấu ngân hàng vẫn còn... rất xấu.
"Rất nhiều những khoản lãi của những khoản nợ dính vào nợ xấu vẫn được các ngân hàng hạch toán vào các khoản lãi phải thu, và không ít trong số các khoản phải thu đó họ biết chắc chắn là không bao giờ có thể thu lại được. Điều này dẫn đến 2 hiệu ứng là tăng tổng tài sản và tăng lợi nhuận kinh doanh, nhưng 1 phần trong đó chỉ là tài sản ảo, lợi nhuận ảo" - Tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu nêu thực tế.
Trước thực trạng này, Ngân hàng Nhà nước mới đây đã phải có văn bản yêu cầu các ngân hàng thực hiện đúng quy định pháp luật về dự thu lãi phù hợp. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thực hiện dự thu lãi phù hợp với thực trạng các khoản nợ, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật để phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Ngân hàng cũng cần thường xuyên rà soát tình hình thực tế của các khoản nợ đang dự thu lãi, đặc biệt các khoản lãi dự thu lớn. Điều này giúp các đơn vị kịp thời thoái lãi thu đối với các trường hợp khó thu hồi, thoái các khoản thu lãi dự thu theo quy định.
Gánh nặng tín dụng lớn, nợ xấu ngân hàng khó giảm
Thời gian qua, một số ngân hàng mua lại nợ xấu của ngân hàng để tự xử lý, nhưng phần lớn vẫn còn nằm lại VAMC. Theo cơ chế mua nợ xấu, VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt cho các tổ chức tín dụng bán nợ, có kỳ hạn 5 năm hoặc 10 năm. Nếu trái phiếu đáo hạn mà nợ xấu không được xử lý, nó sẽ trở lại với các ngân hàng. Tính từ thời điểm bán nợ mạnh nhất của các tổ chức tín dụng cho VAMC vào năm 2015 thì thời gian 5 năm đã sắp trôi qua và một lượng lớn nợ xấu có khả năng sẽ phải hạch toán vào bảng cân đối kết quả kinh doanh của các ngân hàng.
Câu hỏi đặt ra là, liệu đến thời điểm đó, cơ quan quản lý có cho phép ngân hàng tiếp tục duy trì tài sản nợ tại VAMC. Vì những khoản nợ trải qua 5 năm không thu hồi được sẽ là những khoản nợ rất khó thu hồi. Nếu trở lại các ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải xóa nợ ngay và những khoản nợ này sẽ bị trừ vào vốn chủ sở hữu, ảnh hưởng đến toàn bộ bảng cân đối kế toán.
Dù đánh giá cao những nỗ lực xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam thời gian qua, nhưng theo ông Nguyễn Minh Cường - Kinh tế trưởng Ngân hàng ADB tại Việt Nam cho rằng, về lâu dài vấn đề xử lý nợ xấu phải gắn với việc phát triển thị trường vốn để san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống ngân hàng. "Nếu ngân hàng tiếp tục phải gánh cung cấp tín dụng cho cả nền kinh tế thì nó có thể tiếp tục là nguyên nhân "đẻ" ra nợ xấu trong tương lai. Vì vậy cần phát triển thêm kênh thị trường vốn để san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống ngân hàng, từ đó giúp giảm nợ xấu".
Nhưng theo vị chuyên gia này, quá trình phát triển thị trường vốn không phải dễ dàng, đòi hỏi hệ thống về thể chế, về pháp luật cũng như là các biện pháp để đảm bảo phát triển thị trường vốn một cách lành mạnh. "Đặc biệt những vấn đề như vừa rồi các ngân hàng mua trái phiếu doanh nghiệp, trong đó có dấu hiệu mua trái phiếu để đảo nợ cho thấy thị trường vốn vẫn còn nhiều vấn đề. Tuy nhiên đây là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà các nước khác cũng đều xảy ra như thế".
Ngoài ra, theo các chuyên gia, việc các ngân hàng đang cấp tập thực hiện những yêu cầu của Basel II cũng đang là một giải pháp quan trọng về lâu dài để các ngân hàng hạn chế nợ xấu. Vì việc thực hiện Basel II buộc các ngân hàng phải tuân thủ những yêu cầu chặt chẽ về vốn, nhất là tỷ lệ an toàn vốn.
Hà Loan
Theo Anninhthudo.vn
Lãi suất huy động ngắn hạn lên 8%/năm, ngân hàng nào cao nhất hiện nay? Khảo sát thị trường cho thấy, mức lãi suất 8%/năm đã xuất hiện ở kỳ hạn 6 tháng tại một ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân... Theo thông báo của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), lãi suất huy động VND kỳ hạn 6 tháng của ngân hàng này hiện áp dụng ở mức 8,03-8,21%/năm (với khoản tiền gửi từ 1,5...