Khởi sự kinh doanh của các doanh nghiệp có dấu hiệu khởi sắc
Theo báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 4/2022 vừa được Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, hoạt động khởi sự kinh doanh đã có sự khởi sắc mạnh mẽ.
Trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới đạt cao nhất từ trước đến nay với 15 nghìn doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê nhận định, kết quả trên cho thấy các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của Quốc hội và Chính phủ đúng hướng và hiệu quả, tạo niềm tin cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty Youngbag ViiNa khu Công nghiệp Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ảnh minh họa: TTXVN
Khởi sắc mạnh mẽ
Theo Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp thành lập mới đạt cao nhất từ trước đến nay với 15 nghìn doanh nghiệp, tương đương với số vốn đăng ký là 164,1 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký gần 104,8 nghìn lao động.
Nếu so với tháng 3/2022, tháng 4/2022 tăng 4,9% về số doanh nghiệp, giảm 15,3% về vốn đăng ký và tăng 11,7% về số lao; và so với cùng kỳ năm trước, tăng 0,9% về số doanh nghiệp, giảm 8,8% về số vốn đăng ký và tăng 10,7% về số lao động.
Ngoài ra, cả nước còn có 7.034 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 63,6% so với tháng trước và tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2021.
Nếu tính cả số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động thì số doanh nghiệp tham gia thị trường trong tháng 4/2022 gấp hơn 2 lần so với doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, cả nước có 49,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 635,3 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký 348,2 nghìn lao động, tăng 12,3% về số doanh nghiệp, tăng 1,2% về vốn đăng ký và tăng 2,3% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.
Theo đó, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 4 tháng đầu năm 2022 đạt 12,8 tỷ đồng, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2021.
Nếu tính cả 1.345,5 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 17,1 nghìn doanh nghiệp tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2022 là 1.980,8 nghìn tỷ đồng, tăng 39,4% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, còn có 30,9 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động (tăng 60,6% so với cùng kỳ năm 2021), nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 4 tháng đầu năm 2022 lên 80,5 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước.
Video đang HOT
Lãnh đạo Tổng cục Thống kê nhận định, kết quả trên cho thấy các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của Quốc hội và Chính phủ đúng hướng và hiệu quả, tạo niềm tin cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Ở chiều ngược lại, về số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong tháng 4/2022, có 5.391 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 81,1% so với tháng trước và tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2021; có 3.762 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 52,1% và giảm 32,9% và có 1.227 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 13,9% và giảm 20,4%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 41 nghìn doanh nghiệp, tăng 44,6% so với cùng kỳ năm trước; 15 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm 8,7%; gần 5,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 17,5%.
Như vậy, trong 4 tháng đầu năm, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2021; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 60,6% trong khi đó số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể giảm 17,5%.
Các giải pháp thích ứng an toàn và hiệu quả
Để hỗ trợ doanh nghiệp, Tổng cục Thống kê đề xuất các bộ, ngành cần tiếp tục triển khai chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 128/NQ-CP quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19″; đồng thời, bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên vật liệu, năng lượng để đáp ứng yêu cầu phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế – xã hội; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án công nghiệp quan trọng; hỗ trợ tối đa các nhà máy duy trì và khôi phục sản xuất để giữ đơn hàng, chuỗi cung ứng.
Ông Johnathan Hạnh Nguyễn, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPPG) chia sẻ, cước vận tải và giá dầu thế giới liên tục tăng cao trong thời gian qua ảnh hưởng lớn đối với hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh thế giới còn nhiều biến động, giá nguyên, nhiên liệu giữ ở mức cao sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động vận tải trong xuất nhập khẩu. Từ thực tế đó, doanh nghiệp mong muốn các ngành chức năng, nhất là ngành hải quan tiếp tục đồng hành và có những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu vượt khó.
“Để kéo giảm chi phí cho doanh nghiệp, cần tiếp tục tăng cường đơn giản hóa, minh bạch thủ tục hải quan để giảm chi phí và tăng tính dự đoán cho doanh nghiệp. Theo đó, cần nhanh chóng xây dựng và sử dụng các hệ thống trao đổi điên tử các dữ liệu giữa các doanh nghiệp, hải quan và các cơ quan liên quan; tạo thuận lợi cho các chủ thể có mức độ tuân thủ cao”, ông Johnathan Hạnh Nguyễn nêu kiến nghị.
Cùng với việc hỗ trợ về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, tháo gỡ khó khăn, các địa phương còn đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, bình ổn giá; đồng thời, nắm bắt thông tin để kịp thời hỗ trợ tháo gỡ, nhất là thủ tục tín dụng nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận, cập nhật chính sách mới của Chính phủ.
Ông Đào Duy Tám, Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan, Tổng cục Hải quan cho biết, với mục tiêu cắt giảm thủ tục hành chính và các hoạt động sáng tạo giúp doanh nghiệp duy trì và phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan sẽ tích cực hoàn thiện hệ thống thể chế, văn bản quy phạm pháp luật.
Đồng thời, triển khai nhiều giải pháp về ứng dụng công nghệ thông tin như: thực hiện thủ tục hải quan hoàn toàn bằng phương thức điện tử; thanh toán điện tử (E-Payment); quản lý giám sát hải quan tự động; thay thế các thủ tục hành chính bằng việc chuyển đổi sang hình thức kết nối, trao đổi dữ liệu thông tin điện tử…
Bên cạnh đó, các địa phương cũng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ, kênh thương mại trực tuyến do các tổ chức nước ngoài triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, tìm kiếm các thị trường mới thay cho các thị trường truyền thống lâu nay. Hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh và tăng cường quảng bá, tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nội địa, hỗ trợ đưa sản phẩm ra nước ngoài thông qua các cơ quan đại diện Việt Nam ở các nước và khu vực…
Về cải thiện môi trường đầu tư, đồng hành cùng doanh nghiệp, nhiều địa phương trên cả nước đang rà soát chính sách phù hợp để thu hút nhanh, hiệu quả doanh nghiệp lớn ở trong nước và nước ngoài đầu tư có trọng tâm, chọn lọc; ưu tiên dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, quản trị hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thị trường khởi sắc nhưng doanh nghiệp vẫn khó có lãi
Vượt qua nhiều khó khăn trong năm 2021, cộng đồng doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu có tâm thế vững vàng và đặt nhiều kỳ vọng trong năm 2022 khi số lượng đơn hàng gia tăng.
Tuy nhiên, chi phí sản xuất và logistics không ngừng tăng lên đang "bào mòn" lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tín hiệu vui về xuất khẩu
Sản xuất hàng may mặc tại Công ty Cổ phần Thương mại xuất nhập khẩu May Phương Nam (quận Gò Vấp). Ảnh minh họa: Thanh Vũ/TTXVN
Sau 3 tháng "bình thường mới" với việc nỗ lực phục hồi sản xuất, nhiều ngành ghi nhận tín hiệu tích cực từ thị trường khi có được nhiều đơn hàng xuất khẩu ngay từ đầu năm, một số doanh nghiệp đã có đơn hàng đến giữa năm.
Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Đồng Quản trị Công ty Cổ phần May Sài Gòn 3, Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP Hồ Chí Minh thông tin, trong năm 2021, dù có thời gian các doanh nghiệp phía Nam bị gián đoạn sản xuất, phải dịch chuyển một số đơn hàng ra phía Bắc nhưng cơ bản vẫn đáp ứng được đơn hàng cho khách. Nhờ khả năng thích ứng linh hoạt nên dệt may Việt Nam vẫn được các đối tác đánh giá cao và tiếp tục ký các đơn hàng mới ngay khi sản xuất được khôi phục.
Ngay từ tháng 1 các doanh nghiệp dệt may đều đã có đơn hàng đến hết quý I, nhiều doanh nghiệp đã có đơn đến giữa năm và thỏa thuận với khách hàng kế hoạch sản xuất, cung ứng cho cả năm 2022. Với số lượng đơn hàng hiện có thì khả năng tăng trưởng dệt may năm 2022 sẽ ở mức trên 10% so với năm 2021, đạt mức từ 42 - 43 tỷ USD.
Riêng với Công ty Cổ phần May Sài Gòn 3, dự kiến doanh thu đạt khoảng 75 triệu USD, tăng khoảng 30% so với năm 2021. Mỹ và Nhật Bản vẫn là hai thị trường lớn nhất có đơn hàng ổn định và gia tăng.
Tương tự, ông Phạm Văn Việt, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH Việt Thắng Jean cho biết, là công ty có sản phẩm đặc trưng, sử dụng công nghệ cao nên số đơn hàng khá ổn định. Hiện nay, công ty đã có đơn hàng đến hết quý II/2022 và đang tập trung mở rộng sản xuất để tăng sản lượng xuất khẩu. Nếu duy trì được nhịp độ sản xuất như hiện nay thì năm 2022 khả năng tăng trưởng của công ty sẽ cao hơn năm 2021 trên 15%.
Với ngành nhựa tiêu dùng, ông Trần Việt Anh, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Nam Thái Sơn cho hay, trong hơn 3 tháng sản xuất "3 tại chỗ" chỉ có khoảng từ 20-30% số doanh nghiệp duy trì sản xuất nhưng sản lượng cũng rất thấp, lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp trước đó đã được tiêu thụ hết trong khi nhu cầu tiêu dùng đang tăng. Chính vì vậy, khi khôi phục sản xuất trở lại hầu hết doanh nghiệp có đầu ra tốt.
Đầu năm 2022, Công ty Nam Thái Sơn đã có đơn hàng xuất khẩu liên tục, đáng chú ý nhất là đơn hàng khoảng 4.000 tấn đi thị trường châu Âu, với trị giá hơn 8 triệu USD. Ngoài ra, đơn hàng từ thị trường Mỹ cũng tăng rất nhiều. Điều này xuất phát từ việc ngành sản xuất tại Mỹ đang bị ảnh hưởng do số ca nhiễm COVID-19 tăng trở lại. Trong khi đó Trung Quốc là nhà cung cấp sản phẩm nhựa lớn cho thị trường Mỹ cũng giảm sản lượng nên đơn hàng đổ về Việt Nam.
Ở nhóm nông sản, xuất khẩu điều được dự báo tiếp tục tăng trưởng tốt trong năm 2022 sau khi đã lập hai kỷ lục cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu trong năm 2021.
Theo Hiệp hội Điều Việt Nam, một trong những thị trường có dư địa tăng trưởng cao của hạt điều là EU, với sản lượng xuất khẩu tăng khoảng 15%, giá trị tăng khoảng 10%. Nhận định trên dựa trên yếu tố cung - cầu, giá xuất khẩu có xu hướng phục hồi từ cuối năm 2021 và đầu năm 2022.
Việt Nam hiện là nhà cung cấp hạt điều lớn nhất cho EU và Hiệp định EVFTA có hiệu lực đưa thuế nhập khẩu hạt điều chế biến từ Việt Nam vào EU về 0%. Đây là lợi thế giúp ngành điều Việt Nam gia tăng xuất khẩu vào EU và mở rộng thêm thị phần tại không chỉ tại thị trường chính mà ngay cả đối với các thị trường ngách.
Chi phí logistics "ăn mòn" lợi nhuận
Chế biến thủy sản tại Công ty Cổ phần Gò Đàng (AGD) tại Khu công nghiệp Mỹ Tho (Tiền Giang). Ảnh minh họa: Huy Hùng/TTXVN
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản chia sẻ đang "đau đầu" vì đơn hàng xuất khẩu nhiều nhưng cước vận chuyển liên tục lập đỉnh mới. Cụ thể, cước vận tải biển đi Mỹ từ mức 3.000USD/container trước dịch COVID-19 hiện nay đã lên từ 13.000-14.000USD/container đi bờ Tây, còn đi bờ Đông là 17.000USD/container. Cước tàu đi châu Âu giao động từ 12.000-14.000USD/container. Tương tự, cước tàu đi Trung Đông hiện đã ở mức từ 10.000 - 11.000USD/container.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải chịu thêm hàng loạt phụ phí như phí xếp dỡ hàng, lưu kho, nhiên liệu sạch, cân bằng container...Thời gian vận chuyển cũng tăng trung bình 15-20 ngày so với trước đây, nhiều đơn hàng giao cho khách còn chậm tới 2 - 3 tháng khiến chất lượng giảm và thời gian sử dụng bị rút ngắn.
Ông Trương Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn (APT) cho biết: Chi phí đầu vào từ nguyên liệu, phụ liệu, bao bì đều tăng, cộng với chi phí logistics đường biển neo ở mức cao đang là thách thức lớn nhất của hầu hết doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hiện nay. Trước đây khi chi phí sản xuất bình ổn, doanh nghiệp thực phẩm có thể đạt lợi nhuận từ 7-10% là khá tốt nhưng hiện tại với việc chi phí đồng loạt tăng thì doanh nghiệp hầu như không có lợi nhuận.
Theo ông Trương Tiến Dũng, dù chi phí tăng nhưng doanh nghiệp thực phẩm khó nâng giá bán do đã ký hợp đồng xuất khẩu từ trước và giữ bình ổn giá cho sản phẩm tiêu dùng trong nước. Các doanh nghiệp đang cố gắng duy trì sản xuất để tạo việc làm cho người lao động và các khách hàng quan trọng nhưng hầu hết không có lợi nhuận, thậm chí nếu sản xuất nhiều có thể phải bù lỗ.
Trong khi đó, ông Trần Việt Anh chia sẻ, các doanh nghiệp hiện nay dù chạy hết công suất cũng không đủ hàng để giao nhưng thực tế chỉ sản xuất được khoảng 60% do thiếu lao động và nguyên liệu về chậm.
"Cước vận chuyển tăng liên tục trong gần 2 năm qua cộng với tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng do thiếu hụt container, tắc nghẽn cảng biển khiến nguyên liệu về Việt Nam bị chậm. Bản thân giá nguyên liệu cũng tăng từ 30-40% dẫn đến chi phí sản xuất bị đội lên cao.
Trong khi đó, giá bán hầu như không thay đổi khiến nhiều doanh nghiệp điều chỉnh nhịp độ sản xuất chậm lại để chờ giá nguyên liệu, cước vận chuyển "hạ nhiệt" có thể sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung.", ông Trần Việt Anh nêu tình trạng chung.
Cùng quan điểm, ông Phạm Xuân Hồng cho biết, chi phí nguyên vật liệu, chi phí logistics đều tăng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh về giá của dệt may Việt Nam. Giá thành sản xuất tăng nhưng việc đàm phán tăng giá bán hiện nay sẽ rất khó, nhất là trong bối cảnh người tiêu dùng toàn cầu đều bị ảnh hưởng thu nhập sau 2 năm đại dịch, dù nhu cầu mua sắm vẫn cao.
Theo ông Phạm Xuân Hồng, hầu hết doanh nghiệp đều phấn đấu ổn định sản xuất sau thời gian bị ảnh hưởng nặng nề từ dịch COVID-19, tạo việc làm và chăm lo cho người lao động đang là ưu tiên hàng đầu, lợi nhuận phải xếp sau. Do đó, doanh nghiệp chấp nhận lợi nhuận thấp, có thể hòa vốn ở thời điểm hiện nay để duy trì khả năng cạnh tranh và chờ thời điểm thích hợp mới điều chỉnh giá bán cho hợp lý.
Doanh nghiệp mong sớm có hỗ trợ lãi suất trực tiếp để hồi phục sản xuất Trước khó khăn chồng chất bởi dịch COVID-19; đặc biệt là dòng tiền cạn kiệt, cộng đồng doanh nghiệp tha thiết mong muốn Chính phủ sớm có hỗ trợ lãi suất trực tiếp (4%/năm) và nới điều kiện vay để doanh nghiệp tiếp cận vốn. Công nhân lao động Công ty cổ phần Cơ khí xây dựng thương mại Đại Dũng tại khu...