Khi nào cần mổ đục thủy tinh thể?
Ðục thể thủy tinh là nguyên nhân thứ hai gây giảm thị lực trên phạm vi toàn cầu, chỉ sau tật khúc xạ, và thường xảy ra ở người cao tuổi. Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả nhất vẫn là phẫu thuật.
Thế nào là đục thể thuỷ tinh?
Thể thuỷ tinh là một thấu kính trong suốt ở bên trong con mắt. Nó góp 1/3 vào năng lực hội tụ của nhãn cầu. Công suất hội tụ của thể thuỷ tinh được đảm bảo khi nó còn trong suốt, các mặt cong và độ dầy còn nằm trong giới hạn sinh lý. Ngoài ra, thể thuỷ tinh còn có chức năng lọc tia tử ngoại – tia có hại có trong phổ bức xạ của mặt trời. Khi các phân tử protein không hoà tan bị tích tụ trong thể thuỷ tinh cùng với tuổi tác thì tính trong suốt của nó không còn nữa. Các tia sáng khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ mạnh gây giảm thị lực. Đục thể thuỷ tinh được coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực xuống còn
BS đang khám, tư vấn cho bệnh nhân. Ảnh minh họa (nguồn Internet).
Đục thể thủy tinh là nguyên nhân thứ hai gây giảm thị lực trên phạm vi toàn cầu, chỉ sau tật khúc xạ. Nỗ lực điều trị căn bệnh này bằng phẫu thuật. Những tiến bộ về kỹ thuật và phương tiện phát triển như vũ bão đã làm số lượng các ca phẫu thuật loại này tăng đến chóng mặt. Đây là loại phẫu thuật được tiến hành nhiều nhất, nhanh nhất và ít chảy máu nhất. Ở Pháp có khoảng 400.000 ngàn người được phẫu thuật thể thủy tinh mỗi năm, ở nước ta con số này là khoảng 500.000 người ứng với 1 triệu con mắt đã tìm lại được ánh sáng hàng năm.
Từ một kỹ thuật cao chỉ có ở tuyến trung ương nay loại phẫu thuật này đã phổ biến xuống tuyến tỉnh, thậm chí là tuyến huyện. Việc phổ cập loại hình phẫu thuật này là thành công lớn của ngành nhãn khoa, của nền kinh tế thị trường, của đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế và sự hỗ trợ kinh phí rất lớn của quĩ bảo hiểm y tế. Một bệnh nhân bị đục thể thủy tinh luôn đi kèm với một dịch vụ y tế cần cung cấp. Sẽ có rất nhiều lời chào mời, hứa hẹn đến với họ. Thế nhưng người bệnh luôn là người thiếu thông tin nhất, ít được quyền lựa chọn và dễ bị tổn thương nhất.
Ðiều trị bằng phẫu thuật
Chỉ định mổ đục thủy tinh thể chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật.
Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật. Phẫu thuật thể thuỷ tinh đã có chừng hai thế kỷ nay, nhưng phương pháp đặt kính nội nhãn (thể thuỷ tinh nhân tạo) mới chỉ có từ năm 1949. Sau này, về phương diện vật liệu học, thể thuỷ tinh nhân tạo đã dần dần được cải biên sao cho dung nạp tốt, bền vững, lọc được tia tử ngoại, ưa nước. Ngày nay, loại chế từ silicone, gấp được và chịu nước được đa số các phẫu thuật viên ưa dùng. Một số loại thể thủy tinh nhân tạo mới ra đời còn chỉnh được loạn thị có sẵn của bệnh nhân, loại đa tiêu cự giúp bệnh nhân không còn phải đeo kính lão khi nhìn gần. Tuy vậy giá cả của chúng vẫn còn là điều bệnh nhân còn e ngại.
Lĩnh vực phẫu thuật này được ứng dụng sôi nổi nhất những thành tựu mới của ngành nhãn khoa thế giới. Hàng loạt các kỹ thuật mổ mới đi kèm với nó là các máy móc, phương tiện, vật tư tiêu hao ra đời trong vòng 20 năm trở lại đây.
Đến giờ phút này, tại các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã trở thành phổ biến. Ưu điểm của nó đã quá rõ ràng: vết mổ nhỏ, đặc biệt trong kỹ thuật PHACO lạnh chỉ còn là 2mm thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong ngày, tỷ lệ biến chứng ít. Chính vì vậy số lượng bệnh nhân được mổ đục thể thuỷ tinh theo phương pháp này ngày càng tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã rộng rãi hơn nhiều so với trước.
Video đang HOT
Cần chuẩn bị gì khi phẫu thuật?
Chỉ định mổ đục thủy tinh thể chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là những yếu tố bệnh lý khác. Khi khám bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự tương hợp hay không giữa tính chất và mức độ đục thể thuỷ tinh với mức độ giảm thị lực.
Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật. Cũng cần quan tâm đến những yếu tố khác như tuổi của người bệnh, tính chất công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt hàng ngày… để thúc đẩy hay trì hoãn can thiệp phẫu thuật.
Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa mắt kỹ càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết định mổ, tiên lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự phòng. Tại mắt chúng ta sẽ đi tìm những bệnh có liên quan đến tuổi tác như thoái hoá hoàng điểm người già, bệnh võng mạc tiểu đường, cận thị… Trên toàn thân chúng ta cần phát hiện các bệnh nội khoa như: tăng huyết áp, tiểu đường, các ổ viêm nhiễm. Điều này giải thích tại sao trước khi mổ chúng ta lại cầm trong tay tới 7-8 tờ xét nghiệm.
Đây là loại phẫu thuật can thiệp tối thiểu, gần như không chảy máu, rất ít hoặc không đau đớn. Một số bệnh nhân đặc biệt như bệnh nhân tâm thần hoặc rung giật nhãn cầu có thể cần gây mê để phẫu thuật, còn lại là gây tê tại chỗ, xuất viện trong ngày.
Trước khi mổ bệnh nhân nên tắm gội sạch sẽ, cắt tóc, nếu có búi tóc thì nên tháo xuôi búi tóc, ăn nhẹ. Một giờ trước khi vào phòng mổ bệnh nhân sẽ được nhỏ thuốc giãn đồng tử, thuốc tê, thuốc sát trùng. Nếu có các bệnh mạn tính như huyết áp, tiểu đường, hen suyễn thì nên dùng các thuốc toàn thân như bình thường. Bên cạnh đó vẫn sẽ có các bác sĩ gây mê hồi sức theo dõi cho bạn trong suốt quá trình phẫu thuật.
Sau khi gây tê thì gần như bạn không có cảm giác đau, nhưng khó chịu nhất là cứ phải nhìn thẳng vào ánh đèn khá chói của máy sinh hiển vi. Bạn nên tuân thủ chính xác các yêu cầu của phẫu thuật viên về tư thế đầu, tư thế mắt.
Khâu chuẩn bị khá công phu và căng thẳng như vậy thế nhưng thời gian phẫu thuật trung bình chỉ là 20-30 phút, khá nhanh chóng và êm ái.
Nếu không có các bệnh tại mắt khác thì có khoảng 95% bệnh nhân thu được thị lực>5/10. Ngoài việc thị lực được cải thiện, còn có những lợi ích đáng kể khác cho bệnh nhân: cải thiện khả năng nhận biết màu sắc, tăng khả năng đọc và nhìn gần, tăng khả năng lao động, di chuyển và lái xe. Các biến chứng viêm nhiễm thường nhẹ và kiểm soát được. Đáng ngại nhất là biến chứng xuất huyết nội nhãn và viêm nội nhãn, tuy không gặp nhiều. Biến chứng muộn đục bao sau phải giải quyết bằng laser YAG dần dần đã trở thành phổ biến cùng với số lượng đông đảo bệnh nhân được mổ đặt thể thuỷ tinh nhân tạo.
Và chăm sóc sau mổ
Khi phẫu thuật đục thủy tinh thể bệnh nhân thường xuất viện sớm nên rất ít có cơ hội được giải thích, chăm sóc tỷ mỉ. Khi về nhà bạn có thể thấy mình có những biến đổi và khó chịu sau đây: mi mắt bị phù, chút xuất huyết trên lòng trắng, mắt cộm và chói, lòng đen có đám phù đục…
Những vấn đề trên, với các thuốc mà bạn đã được bác sĩ kê đơn về sử dụng sẽ biến mất trong vòng 3-5 ngày. Các cảm giác như chảy nước mắt, cộm mắt, đỏ mắt nhẹ có thể tồn tại đến tuần thứ 6 sau phẫu thuật. Những biến chứng nặng tuy rất hiếm gặp như: nghẽn đồng tử, xuất huyết và viêm nội nhãn sẽ gây những triệu chứng cấp tính, rầm rộ khiến bạn phải quay lại bệnh viện ngay đó là: đau nhức, nhìn mờ nhanh, đỏ mắt nhiều, có thấy chớp sáng hoặc nhiều ruồi muỗi bay trước mắt.
Bạn nên lưu ý thực hiện những chỉ dẫn sau đây trong thời gian hậu phẫu:
- Thực hiện y lệnh thuốc men chính xác, rửa tay sạch sẽ trước khi tra nhỏ thuốc, tự học cách tra nhỏ thuốc. Các thuốc nước nên nhỏ cách nhau 5 phút, thuốc mỡ tra sau cùng, sau nhỏ đậy ngay nắp thuốc để chống nhiễm bẩn lọ thuốc.
- Trong vài ngày đầu đừng để xà phòng vào mắt, vì vậy nên kiêng tắm gội. Chỉ nên lau mặt nhẹ nhàng bằng khăn ẩm đã giặt sạch.
- Có thể cạo râu như bình thường, có thể tắm phần dưới cổ sau một ngày, tắm toàn thân trong bồn hoặc tắm dưới vòi hoa sen sau một tuần.
- Ăn uống như bình thường, tuy vậy nên kiêng các đồ ăn quá cứng phải nhai mạnh và nhiều.
- Không day dụi hoặc gãi mắt, băng mắt trong một tuần hoặc dùng khiên che mắt vào ban đêm. Ban ngày có thể đeo kính râm, vừa làm êm dịu mắt, vừa tránh nhiễm bẩn cho mắt.
- Không mang vác nặng hay cúi đầu nhiều, có thể xem ti vi như thường lệ.
- Trang điểm, tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, lái xe ô tô và quay về công việc như thường sau một tháng.
Theo SK&ĐS
Bảo vệ mắt trẻ trước màn hình
Cận thị phổ biến ở trẻ thiếu điều kiện nhìn xa, nhất là trẻ em đô thị, nhìn trong điều kiện ánh sáng không phù hợp (quá sáng hoặc quá tối), thiếu dinh dưỡng cho mắt. Tuy nhiên, còn có thể do xem tivi và sử dụng máy vi tính sai cách.
Sự hấp dẫn của các chương trình truyền hình thường kéo các em vô tình ngồi gần màn hình hơn. Ảnh: Lê Kiên
Vì sao trẻ dễ cận thị?
Cận thị là một dạng tật khúc xạ của mắt khiến hình ảnh của vật bị mờ vì hội tụ ở trước võng mạc. Người cận thị muốn nhìn rõ vật ở xa phải đeo kính điều chỉnh sao cho hình ảnh của vật hội tụ đúng trên võng mạc, khi đó mọi vật mới trở nên sắc nét và rõ ràng. Cho tới nay, chưa tìm được nguyên nhân gây cận thị. Tất cả những yếu tố (ánh sáng, môi trường, di truyền, dinh dưỡng...) chỉ là những yếu tố nguy cơ cao. Do vậy, chưa có phương pháp nào phòng ngừa thực sự hiệu quả.
Cận thị phổ biến ở trẻ thiếu điều kiện nhìn xa, nhất là trẻ em đô thị, mọi sinh hoạt, học tập, vui chơi, giải trí đều ở trong cự ly gần, nhìn trong điều kiện ánh sáng không phù hợp (quá sáng hoặc quá tối), thiếu dinh dưỡng cho mắt. Tuy nhiên, còn có thể do xem tivi và sử dụng máy vi tính sai cách.
Thông thường, ánh sáng nền của tivi luôn sáng ở một cường độ nhất định, theo sự điều chỉnh ban đầu của người xem hoặc theo mặc định của nhà sản xuất, có thể gây ra hiện tượng nhoè sáng trong những cảnh nền tối. Ký tự và hình ảnh trên màn hình tivi không có sự tương phản rõ rệt và sắc sảo như trên giấy in. Những ký tự này (điểm ảnh) sáng nhất ở trung tâm và giảm bớt cường độ về phía rìa của chúng. Mắt chúng ta bị cuốn vào một điểm gọi là "điểm nghỉ của quá trình điều tiết" (RPA - Resting Point of Accomodation). Đặc tính này làm cho việc duy trì sự tập trung cố định lên hình ảnh trở nên khó khăn hơn.
Để giữ tập trung vào màn hình, các cơ điều tiết phải gắng sức, tạo ra cảm giác nóng, mỏi mắt sau nhiều giờ xem tivi. Nếu tình trạng này xảy ra lâu và lặp lại thường xuyên, sẽ dẫn đến hiện tượng co quắp điều tiết, là tiền đề cho tật cận thị. Các chuyên gia về mắt đều khuyến cáo không nên xem tivi liên tục quá hai giờ đồng hồ mà không có khoảng nghỉ để mắt thư giãn.
Trước những hình ảnh, âm thanh hấp dẫn của các bộ phim hoạt hình, các chương trình dành cho thiếu nhi, trẻ em sẽ bị cuốn hút và tự giảm khoảng cách với tivi trong lúc xem mà không chú ý. Khoảng cách gần làm tăng tác động của các tia bức xạ phát ra từ màn hình lên mắt trẻ, đồng thời buộc mắt phải điều tiết với mức độ cao hơn. Hiện nay, các sản phẩm tivi LCD sử dụng đèn nền huỳnh quang cathode lạnh đã hạn chế tối đa các bức xạ điện tử. Tuy vậy, khoảng cách an toàn khi xem tivi vẫn là cách màn hình ít nhất 4 - 6 đường chéo màn hình.
Để giữ đôi mắt khoẻ mạnh cho trẻ
Các chuyên gia về mắt khuyến cáo không nên xem tivi liên tục quá hai giờ đồng hồ mà không có khoảng nghỉ để mắt thư giãn. Khoảng cách an toàn khi xem tivi là cách màn hình ít nhất 4 - 6 đường chéo màn hình.
Để bảo vệ mắt cho con em mình, phụ huynh cần áp dụng những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý, có lợi cho sự phát triển thị giác. Ít người biết rằng tật cận thị có liên quan đến dinh dưỡng. Ngoài các loại khoáng chất, vitamin A có trong trái cây, củ có màu đỏ, màu cam, rau lá màu xanh thẫm... chính là những chất bổ cho đôi mắt. Vitamin A giúp mắt nhìn rõ trong bóng tối. Thiếu vitamin A, mắt sẽ bị quáng gà, giảm thị lực, nhất là đối với người đọc sách, làm việc nhiều với máy vi tính. Vitamin A tham gia vào sự trao đổi sắc tố ở võng mạc, giúp mắt thích nghi với các điều kiện ánh sáng.
Thứ hai, đảm bảo trẻ học tập và giải trí trong điều kiện ánh sáng phù hợp. Ở trường, nên tận dụng ánh sáng tự nhiên. Nếu sử dụng đèn chiếu sáng thì không được rọi trực tiếp vào bảng đen gây loá, không phủ sơn bóng lên bảng. Độ cao của bàn ghế phải phù hợp với chiều cao của trẻ ở từng độ tuổi khác nhau. Ở nhà, không để trẻ nằm, quỳ khi học bài. Giữ khoảng cách 45 - 60cm đối với màn hình vi tính và từ 3m trở lên đối với tivi gia đình.
Thứ ba, thư giãn cho mắt sau mỗi 30 - 40 phút học tập trên máy tính. Không xem tivi hoặc chơi trò chơi điện tử quá 3 giờ/ngày và cần đảm bảo ngủ đủ 8 - 10 giờ/ngày.
Ngoài ra, để đảm bảo cho đôi mắt khoẻ, chúng ta cũng có thể chú ý lựa chọn những sản phẩm tivi LCD chất lượng cao, có khả năng hạn chế bức xạ điện tử cũng như có chức năng ánh sáng nền tuỳ chỉnh theo môi trường để tránh các tác hại cho mắt. Đó cũng là một cách hữu hiệu giúp bảo vệ mắt mà vẫn đảm bảo nhu cầu tiếp cận thông tin và khám phá thế giới của trẻ.
Theo TS.BS Trần Hải Yến
Sài Gòn tiếp thị
Chỉ có 5% người cao tuổi khỏe mạnh "Gánh nặng bệnh tật đang đè nặng lên 95% người cao tuổi ở nước ta", theo điều tra của ngành y tế được công bố tại Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Sức khỏe thế giới (7/4) năm 2012 do Bộ Y tế tổ chức. Để vui khỏe khi già cần ý thức ngay từ lúc trẻ (ảnh minh họa internet) Phát biểu...