Khi hiểm họa “bủa vây” nghề dạy học
Là những người đứng trên giảng đường, song, giáo viên thường xuyên đối mặt với nhiều nguy hiểm. Không ít giáo viên bị học sinh đe dọa, xúc phạm.
Nguy cơ mắc bệnh luôn “thường trực” với các giáo viên.
Trong khi đó, nhiều nhà giáo khác phải đối mặt với nguy cơ nhiễm Covid-19 do giảng dạy trực tiếp.
Anh
Giáo viên tại Anh đang phải đối mặt với ngôn ngữ “quấy rối tình dục” và mối đe dọa từ một số học sinh mất kiểm soát trong lớp. Hội nghị thường niên của công đoàn đại diện giáo viên Anh – NASUWT cho biết, những năm gần đây, hành vi của học sinh đang ngày một “xấu đi”. Đặc biệt là khi nhiều giáo viên phải “một mình chống chọi” với những trường hợp nghiêm trọng.
Một cuộc khảo sát được thực hiện trên hơn 4.700 công đoàn viên cho thấy, 38% giáo viên đã bị học sinh xúc phạm trong năm qua. Trong khi đó, 10% người bị học sinh đe dọa bạo hành thể xác. Cuộc thăm dò cũng cho thấy, 6% giáo viên đã bị học sinh bạo hành thể xác trong năm ngoái.
Wendy Exton – thành viên điều hành công đoàn, cho biết: “Chúng tôi cần thay đổi lớp học, nhưng không thể làm điều đó một mình. Ngày nay, chúng ta phải đối phó với nhiều vấn đề của xã hội trong trường học, các vấn đề về ma túy và bạo lực. Những thực trạng này thường không được báo cáo vì các trường học sợ hậu quả”.
Theo bà Exton, nhiều giáo viên không chỉ bị miệt thị, mà còn gặp những câu nói mang tính chất quấy rối tình dục, bạo lực, cũng như đe dọa. Một đề nghị được thông qua tại hội nghị đã lên án những tổ chức giáo dục cho rằng, hành vi không thể chấp nhận đó của học sinh chỉ là “một phần của công việc”.
Cũng theo công đoàn, giáo viên thường không được tiếp cận với sự hỗ trợ thích hợp. Bởi, nhiều lãnh đạo trường học và đại học không được đào tạo đầy đủ về cách đối phó với hành vi thách thức của học sinh.
Gary Upton – một thành viên của điều hành công đoàn, cho rằng việc thiếu kinh phí đã dẫn đến sự cắt giảm nhân viên hỗ trợ. Trong khi đó, sĩ số lớp học lớn hơn khiến giáo viên khó đối phó với hành vi của học sinh.
Các đại biểu đã nhất trí vận động những nhà tuyển dụng và chính phủ. Nhờ đó, đảm bảo rằng, giáo viên và hiệu trưởng được đào tạo thích hợp về vấn đề quản lý hành vi học sinh. Họ kêu gọi hỗ trợ giúp giáo viên “sử dụng mọi phương tiện thích hợp” khi phải đối mặt với hành vi “không thể chấp nhận được của học sinh”.
Tiến sĩ Patrick Roach – Tổng Thư ký NASUWT cho biết: “Rõ ràng là không học sinh nào được phép đưa ra bất kỳ hình thức lạm dụng bằng lời nói hoặc thể chất nào, dù là trong lớp học hay trên mạng”.
Trước bối cảnh này, người phát ngôn của Bộ Giáo dục cho biết: “Trong mọi trường hợp, giáo viên không nên bị lạm dụng chỉ vì công việc của họ.
Chúng tôi đang thực hiện các kế hoạch đầy tham vọng để cải thiện hành vi và kỷ luật trong trường học, bao gồm cả chương trình trị giá 10 triệu bảng được thiết kế để mô hình hóa và chia sẻ thực hành gương mẫu.
Video đang HOT
Cần đưa việc quản lý hành vi trở thành một phần cốt lõi của đào tạo giáo viên và cải thiện hướng dẫn cho các trường học”.
Sau gần một năm mở cửa trường học, Nhật Bản tiếp tục đưa ra hàng loạt hạn chế, quy tắc, nhằm ngăn chặn sự lây lan của đại dịch. Lý do Nhật Bản có thể duy trì việc giảng dạy trực tiếp mà không gặp phải những trở ngại lớn là một câu hỏi khó. Bởi, quốc gia này là nơi có những lớp học đông nhất trong số các nước phát triển.
“Quy mô lớp học của Nhật Bản thực sự lớn so với các nước phát triển khác. Vì vậy, từ quan điểm giãn cách xã hội, các lớp học ở Nhật Bản thực sự có thể có nguy cơ lây lan virus cao hơn”, Masatoshi Senoo – cố vấn trường học cho biết.
Thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế cho thấy, Nhật Bản có quy mô lớp học ở cấp tiểu học lớn thứ hai vào năm 2018, với 27,2 học sinh/lớp. Con số này vượt xa so với 23,5 ở Australia, 20,9 ở Mỹ và 19,0 tại Italy.
Trước những khó khăn trong việc giữ trẻ duy trì khoảng cách trong các lớp học, có thể nói, các trường học Nhật Bản chỉ trụ vững nhờ những nỗ lực và hy sinh to lớn của giáo viên, cũng như trẻ em.
Ở một quốc gia nơi lớp học “chật cứng”, một số người có thể mong đợi các giáo viên sẽ phản đối ý tưởng quay trở lại trường học. Song, thực tế, những gì đang diễn ra ở Nhật Bản hoàn toàn ngược lại. Liên minh Giáo viên Nhật Bản (JTU) không đưa ra bất kỳ phản đối nào về việc mở cửa trường học.
“Chúng tôi thậm chí không nghĩ tới việc phản đối hình thức giảng dạy trực tiếp. Gần gũi với trẻ em là điều mà các trường học hướng đến. Lập trường cơ bản của chúng tôi là các trường học nên mở cửa càng nhiều càng tốt”, phát ngôn viên của JTU – Nobuyuki Uchiyama cho biết.
Song, theo ông Hisashi Tanno – Giám đốc Văn phòng Chính sách của JTU, không ít giáo viên – đặc biệt là những người đang mang thai và có tình trạng sức khỏe không tốt, lo lắng về việc bị nhiễm bệnh tại nơi làm việc.
Họ đang gặp phải một khoảng thời gian thực sự khó khăn. Tuy nhiên, công đoàn cho biết chưa bao giờ nhận được bất kỳ báo cáo nghiêm trọng nào về việc các thành viên phàn nàn đối với hình thức giảng dạy trực tiếp do lo ngại về sự an toàn của bản thân.
Một cuộc khảo sát của JTU vào tháng 3 cho thấy, trong số 245 cơ sở giáo dục nơi giáo viên phải chịu trách nhiệm khử trùng trường học sau khi đồng nghiệp hoặc học sinh nhiễm Covid-19, gần 50% người không hài lòng với cách làm đó.
Người phát ngôn Uchiyama – người đang dạy tại các trường tiểu học và trung học cho biết: “Các giáo viên Nhật Bản có quan điểm mềm mỏng đối với ý tưởng vì lợi ích của trẻ em”.
Trong khi đó, ông Tanno – người đã giảng dạy tại các trường trung học khoảng 20 năm trước khi đảm nhận vị trí công đoàn, nhất trí với ý kiến này.
“Khi tôi nghĩ về câu hỏi tại sao giáo viên ở Nhật Bản không lên tiếng phản đối việc mở lại trường học, tôi cảm thấy dường như có suy nghĩ rằng, họ muốn làm điều gì đó cho trẻ em.
Ý thức về sứ mệnh và trách nhiệm to lớn này – điều mà tôi biết không phải lúc nào cũng tốt cho sức khỏe – là cốt lõi của các giáo viên Nhật Bản. Khi chúng tôi nhìn thấy những đứa trẻ gặp khó khăn, chúng tôi cảm thấy cần phải chăm sóc chúng, bất kể khi nào”, ông Tanno nhấn mạnh.
Mỹ
Giáo viên giáo dục đặc biệt không thể giảng dạy trực tuyến.
Các giáo viên giáo dục đặc biệt tại California đã trở lại giảng dạy, khi áp lực giảng dạy trực tiếp đang ngày một lớn. Song, không ít giáo viên mô tả, trải nghiệm này là sự kết hợp giữa sợ hãi, lo lắng và niềm vui.
Đối với những giáo viên như bà Susan Cheramy-McNesby, việc gặp trực tiếp học sinh không hề dễ dàng hơn dù đã nhiều tháng trôi qua. Hai ngày một tuần, bà đeo khẩu trang, găng tay và một tấm chắn nhựa hình nón.
Bà ngồi sau một tấm chắn trong khi đánh giá xem trẻ em có thể đánh vần, nói hoặc đếm tốt như thế nào để được xếp vào các lớp giáo dục đặc biệt. Phòng học được trang bị máy lọc không khí và nước rửa tay. Mọi người được đo nhiệt độ ít nhất một lần.
Tuy nhiên, nữ giáo viên này vẫn lo lắng khi một số đồng nghiệp của mình đã mắc Covid-19. Bởi, bà Cheramy-McNesby hiện 60 và có hệ miễn dịch bị tổn thương.
“Tôi thực sự yêu công việc của mình, nhưng điều này vô cùng căng thẳng. Tôi đang rất cẩn thận. Tôi đang cố gắng hết sức để giữ sức khỏe, nhưng thật đáng sợ”, nữ giáo viên chia sẻ.
Giáo dục đặc biệt đã là một thách thức đối với nhiều học khu trong thời kỳ đại dịch. Bởi, học sinh có nhu cầu đặc biệt thường cần tới các dịch vụ như vật lý trị liệu. Các bài đánh giá, bắt buộc đối với học sinh vào chương trình giáo dục đặc biệt, cũng như những trẻ đã đăng ký, hầu như không thể được cung cấp trực tuyến.
Quận Marin là một trong những khu vực đầu tiên ở California cung cấp chương trình giáo dục đặc biệt trực tiếp. Maren và Tracy Kelly – đôi vợ chồng sống ở Tehachapi, phía Đông Nam Bakersfield, đều là giáo viên giáo dục đặc biệt. Mặc dù cho biết thật tuyệt vời khi gặp lại học sinh, nhưng trải nghiệm này khiến họ bất an.
Việc tận mắt nhìn thấy học sinh phải trải qua các quy trình chống dịch đã khiến bà Tracy Kelly trở nên căng thẳng. Học sinh thường bỏ khẩu trang, hoặc quên các quy tắc về khoảng cách. Một số học sinh của Tracy Kelly bị khuyết tật nặng và cần được giúp đỡ cá nhân. Những điều đó không thể được thực hiện từ khoảng cách 2 mét.
Nữ giáo viên này cho biết, việc nhắc học sinh đeo khẩu trang, rửa tay và đứng cách nhau 2 mét dường như đã mất 1/2 ngày học. Trong khi đó, chồng của cô – người trong hội đồng trường Tehachapi Unified và dạy ở Thung lũng Antelope ở phía Đông Quận Los Angeles, cho biết không lo lắng khi trực tiếp giảng dạy.
“Phải mất một chút thời gian để làm quen, nhưng sau ba ngày, tôi cảm thấy chúng tôi đã ổn. Điều đó có vẻ bình thường. Nếu giáo viên có đủ các quy trình an toàn, điều đó có vẻ đáng để mạo hiểm”, ông Maren chia sẻ.
Cộng hòa Dominica: Nâng cao chất lượng dạy học và đời sống giáo viên
Nước Cộng hòa Dominica đã bắt đầu cải cách để thay đổi việc dạy học thành một nghề có uy tín so với các quốc gia lân cận.
Chất lượng giảng dạy của GV đang được từng bước thực hiện tại Cộng hòa Dominica.
Quốc gia có nền giáo dục tốt nhất luôn được xã hội đánh giá cao và xem trọng nghề dạy học. Giá trị đó được thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà nước, xã hội với GV. Bên cạnh đó là mức ưu đãi, mức độ tin tưởng mà xã hội, phụ huynh muốn gửi gắm cho GV cũng như trách nhiệm to lớn mà họ phải gánh vác.
Mục tiêu của cải cách
Đầu tiên, ngành giáo dục Dominica xác định những gì được mong đợi từ một GV, cụ thể là, các năng lực cần thiết của GV. Tiếp theo, là xác định những gì được mong đợi từ các cơ sở đào tạo GV, bao gồm sự cần thiết của việc giáo dục HS trong một lớp học. Ngoài ra, Cộng hòa Dominica đã tạo điều kiện để GV có thể tham dự lớp bồi dưỡng chuyên môn tại các trường sư phạm nhằm tăng tính cạnh tranh giữa các GV trong hệ thống các trường công lập. Đồng thời, người ta cũng bắt đầu trả lương cho GV cao hơn.
Các mục tiêu giảng dạy cũng được xác định một cách rõ ràng và các chuyên gia được đào tạo kỹ lưỡng, lựa chọn một cách cẩn thận và được trả lương cao. Đây được xem là một hình thái cải cách đơn giản nhưng không kém phần phức tạp về mặt chính trị, hành chính và tài chính. Đó là lý do tại sao nhiều quốc gia khác không thực hiện điều đó.
Những lớp tập huấn đào tạo GV trẻ.
Các trình tự thực hiện
- Xác định một cách rõ ràng những gì mong đợi ở một GV: Năm 2014, Bộ Giáo dục Cộng hòa Dominica đã xuất bản "Tiêu chuẩn chuyên môn và hiệu suất để kiểm định và phát triển sự nghiệp giảng dạy", trong đó đưa ra các yêu cầu về kiến thức đối với GV, kỳ vọng về năng suất giảng dạy trong lớp học cũng như thái độ và giá trị để xác định những chuẩn mực của ngành sư phạm. Các tiêu chuẩn này đã được chứng minh là rất cần thiết cho các quá trình lựa chọn, đào tạo, giới thiệu và đánh giá GV.
- Thông qua "Quy định về đào tạo GV có chất lượng": Trong đó mô tả các năng lực mong đợi đối với GV như phát triển cá nhân và nghề nghiệp, kỹ năng sư phạm, chương trình giảng dạy và quản lý trường học. Mặc dù định nghĩa về năng lực có vẻ là thông lệ tiêu chuẩn đối với bất kỳ bộ máy hành chính nào, nhưng nó thể hiện một cột mốc quan trọng trong quá trình cải cách đào tạo GV của Cộng hòa Dominica. Điều này dẫn đến những thay đổi đáng kể trong việc đào tạo GV.
Trước đây, các GV tương lai sẽ trải qua ba năm đào tạo tại khoa giáo dục, được thực tập đứng lớp một buổi/tuần, trong khi nhiều người trong số họ vừa làm vừa học để trang trải chi phí. Các đề xuất cải cách kêu gọi GV tối thiểu phải có 4 ngày học trực tiếp tại trường và các môn học dành cho GV bao gồm thực hành trong trường học như một phần của chương trình đào tạo. Hơn nữa, đất nước này đang thực hiện những bước đơn giản, là giảng dạy đòi hỏi kết hợp thực hành trên lớp dưới sự dẫn dắt của GV có kinh nghiệm (cũng giống như việc không ai được lái một chiếc máy bay một mình mà không ghi lại một số giờ bay nhất định với người huấn luyện của họ). Bên cạnh đó, tăng cường bồi dưỡng về chuyên môn kỹ thuật cho đội ngũ GV bậc trung học như đào tạo các môn học tương ứng (toán học, khoa học...) và tập trung vào các kỹ năng sư phạm.
- Tuyển sinh vào các chương trình đào tạo GV cơ bản có chọn lọc hơn: Việc tuyển sinh đầu vào các trường sư phạm trở nên chọn lọc hơn. Đó là mọi thí sinh hiện phải làm bài kiểm tra Định hướng và Đo lường học thuật (POMA), như một yêu cầu bắt buộc để được nhận vào một chương trình có cấp bằng đại học. Đối với cấp độ giáo dục, bài kiểm tra này được bổ sung bằng bài kiểm tra tuyển sinh đánh giá trình độ thông thạo ngôn ngữ Tây Ban Nha (chú trọng vào khả năng đọc hiểu) và toán học (chú trọng vào suy luận, toán học logic, số học và hình học).
- Có hệ thống để chọn ra các ứng viên là GV giỏi nhất cho các trường công lập: Ngành giáo dục đang tổ chức cuộc thi (tuyển chọn) GV giỏi với sự cạnh tranh nghiêm ngặt. Năm 2015, chỉ 28% trong số gần 37.000 ứng viên đến từ các trường công lập được công nhận GV giỏi. Đến nay, 100% GV đăng ký đều đạt GV giỏi.
- Tăng lương đáng kể cho GV: Trái ngược với nhận thức của mọi người, mức lương GV ở Cộng hòa Dominica hiện rất cạnh tranh. Nhìn chung, lương thực tế của GV tăng 31% từ năm 2012 - 2016, trái ngược với mức tăng 5% ở các ngành nghề khác trong cùng thời kỳ. Lương GV trường công tăng 40%. Mức tăng này khiến lương của GV cao hơn lương của các chuyên gia khác trong nền kinh tế.
Mặc dù vẫn cần phải làm nhiều việc hơn nữa để nâng cao chất lượng trong quá trình giảng dạy, những cải cách đang được thực hiện ở Cộng hòa Dominica thể hiện những bước tiến đáng ngưỡng mộ nhằm nâng cao giá trị của nghề giảng dạy, một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp giáo dục chất lượng cao.
Trường mầm non Trung Quốc chỉ phục vụ ăn chay cho học sinh Hôm 4/3, cơ quan giáo dục tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc đã tiến hành điều tra về một trường mầm non chỉ cung cấp khẩu phần ăn chay cho học sinh. Ngôi trường mầm non này được mô tả là dạy và học theo "văn hóa truyền thống", đang vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ từ các chuyên gia dinh dưỡng trước...