Khi dịch Covid-19 trôi qua, hồ sơ ngân hàng đọng lại…
Hoạt động cho vay của các ngân hàng đang thay đổi, linh hoạt hơn, nhưng có những nguyên tắc được cho là không thể khác.
Tối 22/4, sau khi xem bản tin, lãnh đạo một ngân hàng thương mại trao đổi lại bên lề với phóng viên: “Như vậy Thống đốc cũng đã khẳng định cụ thể rồi đó. Nguyên tắc là không nới điều kiện cho vay trong bất kỳ hoàn cảnh nào”.
Nguyên tắc không thay đổi
Trước đó, khi BizLIVE tham vấn về việc có nên xem xét nới điều kiện cho vay khi mà khả năng đáp ứng của nhiều doanh nghiệp bị suy giảm bởi dịch Covid-19 , vị lãnh đạo ngân hàng trên nhấn mạnh yếu tố cơ sở: tất cả hoạt động cho vay của ngân hàng đều có hành lang pháp lý quy định; mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, gồm cả ngân hàng, trong mọi hoàn cảnh đều phải tuân thủ theo pháp luật.
Tại hội nghị trực tuyến ngày 22/4, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cũng nhấn mạnh định hướng: Để hỗ trợ khách hàng trước tác động của dịch Covid-19, các tổ chức tín dụng tập trung chia sẻ tối đa, đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, nhưng không nới lỏng điều kiện tín dụng để đảm bảo an toàn và lành mạnh hệ thống.
Đại diện lãnh đạo một số ngân hàng thương mại phát biểu tại hội nghị đó cũng thống nhất nguyên tắc này, trong đó có quan ngại nếu hạ chuẩn sẽ để lại nhiều rủi ro về sau.
“Lúc này, đại dịch tác động làm suy giảm dòng tiền của doanh nghiệp, giảm khả năng tiếp cận tín dụng. Nếu ngân hàng hạ điều kiện cho vay, sau này dịch Covid-19 qua đi nhưng hồ sơ cho vay thì vẫn còn đó. Nếu phát sinh nợ xấu và mất tiền, không có văn bản pháp lý nào quy định là vì hoàn cảnh được miễn trừ cả, miễn trừ vào đâu, mà chỉ có cho vay đúng hay sai quy định thôi”, vị lãnh đạo mà BizLIVE tham vấn nói.
Theo ông, tiền mất đi đó là tiền gửi của dân, ngân hàng là trung gian và chỉ có một phần nhỏ so với tổng dư nợ là nguồn vốn chủ sở hữu. Vậy nên, nguyên tắc bất di bất dịch là khi cho vay phải đảm bảo các điều kiện an toàn đã quy định, lành mạnh và minh bạch hoạt động.
Cho đến nay, cơ chế duy nhất được điều chỉnh bằng văn bản pháp lý cụ thể mới chỉ có ở Thông tư 01 của Ngân hàng Nhà nước, nhưng tập trung ở hỗ trợ các khoản đã cho vay và gặp khó khăn chứ không phải nới hoặc hạ điều kiện cho vay mới.
Chìa khóa quan trọng nhất
Không nới, không hạ điều kiện cho vay, thay vào đó các ngân hàng đang tập trung ở các chính sách hỗ trợ theo khả năng của mỗi thành viên.
Trước hết, hai trọng tâm hỗ trợ khách hàng trước tác động của Covid-19 nằm ở giảm lãi suất, miễn và giảm phí dịch vụ; cơ cấu lại nợ, giãn hoãn nợ mà không phải chuyển nhóm.
Ở trọng tâm thứ nhất, các ngân hàng giảm thiểu tối đa chi phí hoạt động, giảm thiểu “bộ đệm” trong chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động.
Ở trọng tâm thứ hai, quan trọng nhất và tạo hỗ trợ lớn nhất là giãn, hoãn và cơ cấu lại nợ mà không chuyển nhóm, đã được Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn bằng Thông tư 01. Cơ chế này giúp khách hàng bớt áp lực về thanh khoản và dòng tiền, tạo điều kiện để họ có thể tiếp cận nguồn vốn mới, thêm lực phục hồi khi dịch đi qua.
“Thông tư 01 với cơ chế đó chính là chìa khóa quan trọng nhất để mở cánh cửa tín dụng mới. Vì nếu không được cơ cấu lại nợ và phải chuyển nhóm, khách hàng sẽ gặp nợ xấu và theo quy định khó tiếp cận khoản vay mới. Đây cũng chính là cơ chế tạo điều kiện và linh hoạt trong bối cảnh hiện nay”, vị lãnh đạo ngân hàng trên nói.
“Linh hoạt” thay vì “hạ chuẩn”
Video đang HOT
Cho vay, yêu cầu đầu tiên phải xác định khả năng thu hồi vốn trước khi tính đến lợi nhuận. Yêu cầu này đòi hỏi nhìn về tương lai. Chính bối cảnh hiện nay và đòi hỏi “nhìn về tương lai” khiến hoạt động cho vay cũng đang thay đổi.
Trong điều kiện bình thường, ngân hàng có các mô hình, thậm chí có thể phê duyệt tín dụng tự động, để đẩy nhanh tốc độ xử lý. Nhưng nay, dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, tác động mà trên thế giới gần trăm năm qua mới xẩy ra, “nhìn về tương lai” với nó không dễ.
“Cứ hình dung, thông thường trước đây một khoản vay sau khi hoàn tất các công đoạn, việc xét duyệt chỉ mất khoảng 1 tiếng đồng hồ. Còn nay, khi xét duyệt, đặc biệt ở đánh giá triển vọng, có thể phải mất thêm 2 tiếng vì biến số lớn Covid-19″, lãnh đạo một ngân hàng so sánh đơn thuần về quy trình, điều mà ông mong rằng khách hàng thông cảm và chia sẻ.
Nhưng ngược lại, theo ông, khi đánh giá triển vọng, các ngân hàng cũng có thể linh hoạt. Ví dụ như trước đây, khi thẩm định họ đề cao chỉ số sinh lời của doanh nghiệp (như ROE), nhưng tới đây sẽ khó đòi hỏi chỉ số đó ở mức cao được.
Hay khi đánh giá tình hình tài chính, kỳ này khách vay bị hạn chế do ảnh hưởng Covid-19 nhưng ngân hàng có thể linh hoạt khi “chấm điểm”, bởi thời gian tới có triển vọng cải thiện khi dịch qua đi. Ở đây, ngân hàng linh hoạt thay vì cứng nhắc đặt tình hình tài chính hiện tại lên chuẩn mực hàng đầu khi cho vay.
Một lãnh đạo ngân hàng khác mà BizLIVE tham vấn cũng có ý kiến rằng: “Theo tôi lúc này không nên đặt vấn đề, không nên nói là “hạ chuẩn”. “Linh hoạt” trong cho vay là cách nói hợp lý hơn”.
“Thực tế ảnh hưởng của dịch Covid-19 hiện nay tôi thấy ngay cả các startup khởi nghiệp cũng hạn chế và thận trọng khi đi vay vốn. Ưu tiên hiện nay là các ngân hàng cần tập trung làm sao để hỗ trợ qua giảm lãi suất cho vay, miễn giảm phí dịch vụ, cơ cấu lại nợ theo đúng quy định, hỗ trợ doanh nghiệp cân đối được dòng tiền, mở các gói tín dụng ưu đãi.
Quan trọng là tới đây, ngân hàng vẫn sẵn sàng nguồn vốn và các gói ưu đãi, để ngay sau khi hết dịch đẩy mạnh giải ngân. Vì khi đó mới thực sự cần nguồn vốn mới, vẫn đảm bảo ưu đãi để doanh nghiệp có thêm điều kiện thúc đẩy đà phục hồi”, vị lãnh đạo ngân hàng trên nói.
Minh Đức
Tại sao nhiều chuyên gia quốc tế có niềm tin mạnh mẽ rằng kinh tế Việt Nam sẽ kiên cường và "bật trở lại" hậu Covid-19?
Thế giới đang phải vật lộn với sự lây lan và các tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Là một quốc gia có quan hệ kinh tế lớn với Trung Quốc, liệu Covid-19 có kìm hãm sự phát triển của Việt Nam hay Việt Nam đang ở một vị trí tốt để có thể trở lại?
Ảnh: CNA
Xu hướng "tiền Covid-19"
Trong khi hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đang giao tranh thương mại, Việt Nam đã nổi lên như một nhân tố hưởng lợi từ đó. Các chuyên gia quốc tế cho rằng, Việt Nam có lẽ là bên hưởng lớn nhất trong số các quốc gia Đông Nam Á.
Ông Filippo Bortoletti - Cố vấn kinh doanh quốc tế của Dezan Shira & Associates nhận xét: "Việt Nam đã có lợi thế, không chỉ về mặt địa lý mà còn vì sự cởi mở của Chính phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài".
"Việt Nam đã theo con đường phát triển truyền thống từng thấy ở nhiều nền kinh tế châu Á phát triển. Đi từ thu nhập thấp, lên đến trung bình, trung bình cao rồi lên đến thu nhập cao. Bắt đầu từ kinh tế nông nghiệp với một lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn. Lao động dư thừa này di chuyển vào khu vực thành thị, từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Từ đó, Việt Nam có một lực lượng lao động lớn sẵn sàng làm việc với mức lương thấp, thu hút các công ty trong ngành sản xuất thâm dụng lao động" - ông Simon Baptist, Kinh tế trưởng của The Economist Intelligence Unit giải thích.
"Với dân số trẻ, lực lượng lao động lớn so với các nước khác ở Đông Nam Á, và cơ sở hạ tầng tương đối tốt, Việt Nam đã thực sự nổi lên như một vành đai công nghiệp và công nghiệp phụ trợ hấp dẫn với doanh nghiệp nước ngoài chuyển đến Việt Nam" - ông Samuel Pursch, Phó giám đốc Vriens & Partners đánh giá.
Với dân số khoảng 96 triệu người, GDP đã được cải thiện gần 8%, một phần nhờ quá trình chuyển dịch sản xuất từ cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ. Sự gần gũi với Trung Quốc là điều kiện đặc biệt thích hợp cho các công ty muốn chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam.
Thay vì từ bỏ hoàn toàn Trung Quốc, các nhà đầu tư đang chọn việc bổ sung thêm các cơ sở sản xuất với đầu vào giá rẻ ở Việt Nam, hay còn được gọi là chiến lược Trung Quốc 1.
Nhiều công ty đang phụ thuộc quá nhiều vào chuỗi cung ứng ở Trung Quốc, vì vậy họ mong muốn có thể đa dạng hóa, để nếu có biến cố xảy ra ở Trung Quốc, họ còn có lựa chọn khác. Một phần cũng vì tiền lương ở Trung Quốc đang tăng, nên sẽ rất nhanh thôi, họ sẽ không còn lợi thế chi phí cạnh tranh. Khi đó, Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế mà nhiều công ty tìm đến nhất, bởi họ có rất nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Và trên nhiều khía cạnh, làm ăn ở Việt Nam dễ hơn đối với một công ty nước ngoài.
"Để có thể thực phát triển đến cấp độ tiếp theo, Việt Nam cần phải thực sự ý thức được thực tế là đất nước có thể sẽ cần phải mở cửa hơn nữa. Đổ vốn vào Việt Nam rất dễ, nhưng rút ra thì chưa thực sự dễ dàng. Cần phải chắc chắn rằng nhà đầu tư sẽ có kế hoạch thoát hiểm để thực sự có được các khoản đầu tư tốt hơn. Tôi có thể nói rằng Việt Nam đã học tập khá thành công từ câu chuyện của Trung Quốc" - ông Kelvin Tay, Giám đốc đầu tư tại Singapore của UBS nói thêm.
Sức hấp dẫn của Việt Nam
Ưu điểm của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư được thúc đẩy bởi cả yếu tố sản xuất và thị trường tiêu dùng gần 100 triệu dân. Việt Nam không còn là một nước thu nhập thấp mà đã trở thành một quốc gia có thu nhập nước thu nhập trung bình.
"Khi xem xét dòng vốn FDI, cần lưu ý rằng bạn không thể xây dựng một nhà máy ngay lập tức. Trong 5 năm qua, chúng tôi đã thấy rằng dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất chiếm khoảng 11% mỗi năm, đó vẫn là một con số rất mạnh. Nhìn vào con số đó, tôi cho rằng Việt Nam thực sự là khu vực thu hút FDI số một" - bà Sian Fenner, Cố vấn kinh tế của ICAEW và Trưởng nhóm nghiên cứu kinh tế châu Á - Oxford Economics đánh giá.
Điều quan trọng nhất là nỗ lực tự do hóa thương mại của Việt Nam. Các hiệp định đã thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế trong vài năm qua. Việt Nam đã rất tích cực ký kết hiệp định thương mại song phương với các quốc gia và nền kinh tế trên thế giới. Mới nhất là thỏa thuận thương mại tự do mang tính bước ngoặt với Liên minh Châu Âu.
"EVFTA sẽ mang lại cơ hội thâm nhập vào thị trường lớn với thuế suất thấp. Đó là điều rất tích cực cho Việt Nam. CPTPP cũng sẽ là một sự thúc đẩy lớn cho Việt Nam. Bởi dựa trên nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi cảm thấy rằng Việt Nam thực sự là người hưởng lợi lớn nhất từ CPTPP" - ông Kelvin Tay nói.
Sự trở lại "hậu Covid-19"
Song, thế giới đang phải vật lộn với sự lây lan ngày càng tăng và các tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Là một quốc gia có quan hệ kinh tế lớn với Trung Quốc, liệu Covid-19 có kìm hãm sự phát triển của Việt Nam? Hay Việt Nam đang ở một vị trí tốt để có thể trở lại?
"Chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực, vì dịch bệnh này tác động rất lớn đến nhập khẩu của Trung Quốc. Và tất nhiên là Trung Quốc xuất khẩu một lượng hàng hóa lớn (chủ yếu là nguyên vật liệu cho sản xuất) sang Việt Nam. Đặc biệt hơn là thông qua du lịch. Khoảng 30% doanh thu du lịch của Việt Nam đến từ Trung Quốc. Doanh thu trong ngành này đã sụp đổ về gần như bằng không chỉ trong vài tuần, và tác động lan sang cả các ngành khác theo cấp số nhân" - ông Kelvin Tay nói.
Ngành sản xuất linh kiện ở Trung Quốc vẫn đang bị đình trệ ở nhiều cấp độ. Các nhà máy Việt Nam dự kiến sẽ cạn kiệt nguồn linh kiện và các bộ phận trong những tuần tới và có thể là tháng tới.
"Vì nhà máy sản xuất linh kiện đã không mở lại hoặc mở cửa trở lại nhưng không thể chạy hết công suất vì thiếu công nhân. Hoặc có thể, họ vẫn chạy hết công suất nhưng hệ thống hậu cần đã bị gián đoạn nghiêm trọng" - ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Amcham cho biết.
"Dữ liệu thương mại cho giai đoạn đầu năm 2020 rất yếu. Thương mại tổng thể ở Việt Nam đã giảm khoảng 12% trong tháng 1/2020 và tôi dự kiến con số tương tự vào tháng 2 và tháng 3. Với giả định rằng Covid-19 được kiểm soát sau đó, chúng ta vẫn sẽ tiếp tục chứng kiến quý 2/2020 tăng trưởng yếu. Có lẽ đến tháng 6 mọi thứ sẽ trở lại bình thường" - ông Simon Baptist cho hay.
Ông Walter Blocker - Chủ tịch kiêm CEO Liên minh Thương mại Việt Nam nói: "Các chuyến hàng của chúng tôi vào Việt Nam đã giảm khoảng 50%, một phần là do kỳ nghỉ Tết, thứ hai là nhiều công đoạn không trôi chảy đang trì hoãn hoạt động sản xuất của nhà máy".
Liên minh thương mại Việt Nam là một Tập đoàn nắm giữ 9 công ty con hoạt động trong các ngành kinh doanh bao gồm: đồ nội thất, bia và đồ uống, thực phẩm, quảng cáo bảo hiểm và nghiên cứu người tiêu dùng số. Và với nhiều danh mục đầu tư như vậy, tác động của Covid-19 đến họ là rất đa chiều.
Bất chấp tất cả những khó khăn, ông Walter hy vọng rằng Covid-19 có thể chỉ gây ra một trở ngại ngắn cho Việt Nam. Ông tin rằng Việt Nam - đất nước kiên cường chắc chắn sẽ bật trở lại, tận dụng lợi ích của thương chiến.
Thiệt hại trực tiếp đến ngành du lịch ước tính đã lên tới 3-4 tỷ USD. Nhưng Việt Nam thì không hề xa lạ với việc xử lý khủng hoảng y tế. Năm 2003, ở đỉnh điểm của dịch SARS, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát căn bệnh này. Tổ chức y tế tuyên bố Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong số các quốc gia nhiễm đã loại bỏ thành công SARS.
"Việt Nam đã cho thấy sự quyết liệt ngay từ thời điểm đó. Ngay khi có ca nhiễm SARS trọng bệnh viện, họ đã tiến hành phong tỏa, ngăn không cho bất cứ ai ra vào. Nếu bạn đọc báo cáo, các nhân viên y tế và bệnh nhân họ rất đau lòng về những gì đã xảy ra. Nhưng họ đã rất quyết đoán và đưa ra những quyết định khó khăn để ngăn chặn SARS" - Giáo sư Hsu Li Yang của Trường Y tế công cộng Đại học Quốc gia Singapore nói.
Nhưng bản chất của Covid-19 là khác với SARS và tác động đến nền kinh tế toàn cầu có thể nghiêm trọng hơn với hàng trăm quốc gia bị ảnh hưởng. Đóng cửa nhà máy đang phá vỡ chuỗi cung ứng và chặn nguồn cung linh kiện của Việt Nam.
"Việt Nam là một trong số những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, Top 5 năm 2018, Top 5 năm 2019, chưa chắc sẽ lọt vào Top 5 năm 2020 do tác động của Covid-19 nhưng vẫn có nằm trong Top 10. Tại EIU chúng tôi đã dự báo tăng trưởng ở Việt Nam là khoảng 6,4% trung bình trong 5 năm tới. Đầu năm 2020, chúng tôi đã mong đợi nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,9%, có lẽ bây giờ sẽ được sửa đổi giảm xuống khoảng 6,2%, song đó vẫn là một tốc độ tăng trưởng rất cao trong bối cảnh toàn cầu" - ông Simon Baptist khẳng định.
"Chúng tôi cho rằng Covid-19 sẽ có tác động lớn trong qúy 1, nó sẽ tương tự như SARS, sẽ là tác động ngắn hạn. Chúng tôi đang dự báo phần lớn tác động trong quý 1 sẽ phản ánh cả du lịch suy yếu do các biện pháp hạn chế và giảm khách du lịch Trung Quốc, cũng như một số sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay. Chúng tôi thực sự mong đợi rằng sang qúy 2, chúng ta có thể bắt đầu bình thường hóa hoạt động sản xuất" - bà Sian Fenner chia sẻ.
"Tôi nghĩ rằng rất nhiều doanh nghiệp rời Trung Quốc sẽ không trở lại. Covid-19 không phải là lỗi của doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng nó chắc chắn đã củng cố quyết định của nhiều công ty, vốn đã biết việc phụ thuộc quá nhiều vào một quốc gia cho chuỗi cung ứng hoặc kế hoạch kinh doanh là rất rủi ro. Covid-19 đã cho các công ty thêm một lý do để cảm thấy rằng họ nên ở một nơi như Việt Nam. Và như vậy, tôi nghĩ rằng đó là một xu hướng dài hạn mà chúng ta sẽ thấy tiếp tục chứng kiến"- ông Adam Sitkoff nhận định.
Hoàng An
Loạt ông lớn VinGroup, SunGroup, FLC, T&T, BRG, Him Lam, Geleximco...tham gia đối thoại với thành phố Hà Nội tháo gỡ khó khăn mùa dịch Covid-19 Vào chiều nay (16/4), Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ sẽ chủ trì hội nghị "Đối thoại với doanh nghiệp" để tìm các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, ứng phó với dịch bệnh COVID-19, phục hồi kinh tế Thủ đô. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 , trong quý I/2020 tình...