Khám phá di tích quốc gia đặc biệt – Núi Non Nước (Ninh Bình)
Nằm ở cửa ngõ phía Đông thành phố Ninh Bình có một ngọn núi cao, dựng đứng, nằm chờm ra giữa ngã ba sông Đáy và sông Vân có tên là núi Non Nước.
Không chỉ là ngọn núi đẹp, nơi đây ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời Đinh – Lê cho tới giai đoạn kháng chiến chống thực dân, đế quốc sau này… Đã từ lâu, núi Non Nước được coi là biểu tượng của Ninh Bình.
Đền thờ Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu dưới chân núi Non Nước (thành phố Ninh Bình). Ảnh: Anh Tuấn
Những cái tên
Thời vua Đinh Tiên Hoàng, thế kỷ thứ X (khoảng năm 968 – 970), triều đình nhà Đinh lấy núi làm bức bình phong trấn ngự kinh đô Hoa Lư và đặt tên là “Ngự trấn phòng sơn”. Thời vua Lê Đại Hành (980 – 1005), đổi tên thành “Băng sơn”. Thời Trần (thế kỷ XIII), danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu về ẩn dật ở nơi này, thấy cảnh núi đẹp, có hình tựa như một con chim trả màu xanh biếc đang nghiêng mình tắm ở cửa biển, nên ông đặt mỹ tự: “Dục Thúy sơn hải khẩu” nghĩa là chim trả tắm mình ở cửa biển, theo đó núi Non Nước được gọi là Dục Thúy sơn. Người đương thời thường gọi tắt là “Thúy sơn”.
Thời Nguyễn Gia Long, lấy Thuận Hóa (Huế) làm kinh đô, Nhà Nguyễn đã đổi đất Hoa Lư thành “Thanh Hoa ngoại trấn”, núi Thúy cũng được gọi là Thanh Hoa ngoại trấn sơn. Đến thời Minh Mệnh (1821) nhà Nguyễn lại đổi núi Thúy thành “Hộ Thành sơn” (Núi Hộ Thành).
Dù mang rất nhiều cái tên nhưng tên gọi “núi Non Nước” và “núi Thúy” ngày nay đã trở nên quen thuộc và gắn bó với người dân Ninh Bình và du khách thập phương.
Nơi gắn liền với các sự kiện lịch sử
Nằm ở vị trí trọng yếu, án ngữ toàn bộ ngã ba sông Đáy, sông Vân, quốc lộ 10 và nhiều đường giao thông quan trọng, nên núi Non Nước vô tình trở thành nơi ghi dấu nhiều sự kiện trọng đại của đất nước qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt, núi Non Nước là trạm tiền tiêu của kinh thành Hoa Lư. Sau đó, chính nơi đây lại chứng kiến cuộc chuyển giao quyền lực quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng hậu nhà Đinh, Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào cho tướng quân Lê Hoàn, thực hiện cuộc chuyển giao quyền lực từ triều đại nhà Đinh sang nhà Tiền Lê.
Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, núi Non Nước là nơi để hiệu triệu tinh thần đấu tranh của nhân dân chống giặc ngoại xâm… Năm 1929, để tuyên truyền ảnh hưởng của Đảng, khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng và kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, chiến sỹ cách mạng trẻ tuổi Lương Văn Tụy (1914-1932) anh dũng xung phong nhận nhiệm vụ cắm cờ trên núi Non Nước. Sau sự kiện này, Lương Văn Tụy bị thực dân Pháp bắt giam và hy sinh năm 1932.
Hiện, dọc đường lên núi vẫn còn lô cốt và nhiều vết tích của bom đạn thời chiến tranh. Một số tảng đá có khắc chữ bị bom đạn làm vỡ, rơi xuống dưới chân núi, hiện vẫn còn dấu vết.
Video đang HOT
“Bảo tàng thơ”
Nổi tiếng là “cảnh tiên cõi tục” nên Non Nước còn là ngọn núi được nhiều danh sỹ lựa chọn làm đề tài để sáng tác thơ ca. Hiện nay, trên vách núi vẫn còn lưu giữ khoảng 30 bài thơ khắc trên đá của các vị vua, công hầu khanh tướng, các danh nhân, thi sĩ nổi tiếng như: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà… Trong đó, Trương Hán Siêu là người lưu bút tích một bài thơ khắc vào đá, cũng là bài thơ “đặt tên” cho ngọn núi này.
Sơn sắc thượng y y,
Du nhân hồ bất quy?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn danh ngộ tạc phi.
Ngũ hồ thiên địa khoát,
Hảo phỏng cựu ngư ky.
Dịch nghĩa:
Sắc núi vẫn (xanh) mượt mà
Người đi chơi sao không về
Giữa dòng sáng ngời bóng tháp
Thượng giới mở cánh cửa hang
Có cách biệt với cuộc đời trôi nổi như ngày nay
Mới biết rõ cái danh hờ trước kia là không đúng
Trời đất ở Ngũ hồ rộng thênh thang
Hãy tìm lại tảng đá ngồi câu khi trước.
183 bậc đá
Đến Ninh Bình, du khách tuyệt đối không nên bỏ qua điểm tham quan núi Non Nước. Bởi tới đây, bạn có thể tìm hiểu được địa thế cảnh quan, phạm vi của kinh thành Hoa Lư xưa và quá trình biến đổi về địa hình địa mạo của vùng đất Ninh Bình từ xưa đến nay. Nơi đây cũng cung cấp cho chúng ta những hiểu biết quan trọng về nghề chạm khắc đá ở Ninh Bình.
Đặc biệt, vào những ngày cuối và đầu năm, khi thời tiết vẫn còn chút se lạnh, bạn sẽ dễ dàng được tận hưởng một không khí trong lành và chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của ngọn núi.
Du khách leo 183 bậc đá để lên được đỉnh núi. Trên đỉnh núi khá bằng phẳng, cây cối xanh mát. Trên cao, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh sông nước hữu tình, mây trời tuyệt đẹp. Nơi đây, có bức tượng của người chiến sỹ cách mạng trẻ tuổi Lương Văn Tụy; có lầu đón gió được xây dựng từ thế kỉ XIV là nơi dành cho Trương Hán Siêu cùng với những tao nhân và các vị văn sĩ ngồi tọa đàm ngâm thơ.
Phía Tây Bắc của đỉnh núi hiện vẫn còn dấu vết một lô cốt do thực dân Pháp xây dựng để quan sát, canh phòng. ở phía Đông Nam, trên đỉnh núi cao nhất có dựng một cột cờ Tổ quốc. Quan sát trên các vách núi, bạn cũng dễ dàng tìm thấy hàng chục bài thơ được khắc trực tiếp vào núi.
Ngoài ra, dưới chân núi Non Nước còn có đền thờ Trương Hán Siêu và chùa Non Nước. Đền thờ Trương Hán Siêu được kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Trên đỉnh đền có hai con rồng chầu mặt nguyệt. Gian Bái Đường ở hai bên cắm bát cửu. Gian cuối cùng của Hậu Cung có tượng thờ Trương Hán Siêu được đúc bằng đồng. Chùa Non Nước là một ngôi chùa cổ được xây dựng vào thời vua Lý Nhân Tông. Gần đây chùa đã được tu sửa lại khang trang.
Ninh Bình: Khám phá "Nam thiên đệ nhị động"
Tam Cốc - Bích Động là quần thể hang động ở vùng đất xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Địa danh này còn được biết đến với những cái tên nổi tiếng như "vịnh Hạ Long trên cạn" hay "Nam thiên đệ nhị động" là một khu du lịch trọng điểm quốc gia. Toàn khu vực bao gồm hệ thống các hang động núi đá vôi và các di tích lịch sử liên quan đến hành cung Vũ Lâm của triều đại nhà Trần. Quần thể danh thắng Tràng An - Tam Cốc được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt và đã được tổ chức UNESCO xếp hạng di sản thế giới.
Du khách khám phá Tam Cốc bằng thuyền dọc sông Ngô Đồng
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động có diện tích tự nhiên 350,3 ha, cách thành phố Ninh Bình 7 km. Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động gồm nhiều tuyến tham quan bằng phương tiện thuyền, xe đạp và đi bộ nối khoảng gần 20 điểm du lịch. Các tuyến chính của khu du lịch gồm tuyến bến Văn Lâm - Sông Ngô Đồng - Tam Cốc; Tuyến Xuyên thủy động (xuyên dưới Bích Động); Tuyến Thạch Bích - thung Nắng. Các điểm du lịch đi bộ, xe đạp và leo núi gồm núi và chùa Bích Động, động Tiên; hang Múa; khu nhà cổ Cố Viên Lầu, đền Thái Vi - động Thiên Hương...
Tam Cốc, có nghĩa là "ba hang", gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba. Cả ba hang đều vẫn còn giữ nguyên vẹn nét thiên nhiên tự tạo mà không hề có sự tác động của bàn tay con người như quần thể danh thắng Tràng An. Tam Cốc được tạo thành bởi dòng sông Ngô Đồng êm đềm chảy hiền hòa uốn lượn như dải lụa xuyên qua núi. Tam Cốc là tuyến du thuyền được khai thác đầu tiên ở Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động. Hang Cả dài 127 m, xuyên qua một quả núi lớn, cửa hang rộng trên 20 m. Trong hang khí hậu khá mát và có nhiều nhũ đá rủ xuống với muôn hình vạn trạng. Hang Hai, cách hang Cả gần 1 km, dài 60 m, trần hang có nhiều nhũ đá ủ xuống rất kỳ lạ. Hang Ba dài 50 m, trần hang như một vòm đá, thấp hơn so với hai hang kia. Muốn thăm Tam Cốc, du khách xuống thuyền từ bến trung tâm. Thuyền ở bến là những chiếc thuyền mộc mạc bằng gỗ của người dân địa phương đóng và tham gia hợp tác xã để cùng với khu du lịch phục vụ du khách. Người dân trong những xóm xung quanh cũng chính là những người sẽ chèo thuyền đưa du khách khám phá trên dòng sông Ngô Đồng uốn lượn qua các vách núi, hang xuyên thuỷ, cánh đồng lúa. Thời gian đi và trở lại khoảng 2 giờ. Phong cảnh Tam Cốc, nhất là 2 bên dòng sông Ngô Đồng vô cùng xinh đẹp, 2 bên là cánh đồng lúa xanh, chuyển vàng vào khoảng cuối tháng 5 đầu tháng 6. Một vài đoạn trên dòng sông Ngô Đồng là một đầm sen rộng lớn sẽ bung nở rất đẹp vào khoảng tháng 10. Có thể nói rằng, hai bên dòng Ngô Đồng là cả khung cảnh miền quê rất đặc trưng của vùng Bắc Bộ. Điều đặc biệt hơn nữa là cánh đồng Tam Cốc được hình thành từ quá trình khai hoang, lao động của người dân kể từ thế kỷ thứ 10 sau Công Nguyên. Dọc con sông này, thỉnh thoảng, bạn sẽ bắt gặp cảnh người dân sáng sớm hay xế chiều mang quần áo ra bờ sông giặt giũ, những cô thôn nữ đi làm đồng về ra rửa chân, và cả những đứa trẻ nhảy cầu tắm sông vào những buổi chiều. Cảm giác yên bình, nên thơ đến lạ...
Trước cửa một hang động ở Tam Cốc
Bích Động cách bến đò Tam Cốc 2 km, có nghĩa là "động xanh", là tên do Tể tướng Nguyễn Nghiễm, cha của đại thi hào Nguyễn Du đặt cho động năm 1773. Đây là một trong những thắng cảnh nằm trong nhóm được người xưa gọi là "Nam thiên đệ nhất động", cụ thể Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động" tức động đẹp thứ nhì trời Nam, đứng sau động Hương Tích (Nam thiên đệ nhất động) ở Hương Sơn và đứng trước động Địch Lộng (Nam thiên đệ tam động) ở Kẽm Trống. Bích Động gồm một động khô nằm trên lưng chừng núi (làm chùa Bích Động) và một hang động nước đâm xuyên qua lòng núi (gọi là Xuyên Thủy Động). Phía trước động là một nhánh sông Ngô Đồng uốn lượn bên sườn núi, bên kia sông là cánh đồng lúa.
Chùa Bích Động được hình thành từ năm 1428, đầu thời Hậu Lê với quy mô là một ngôi chùa nhỏ ở trên đỉnh núi. Năm 1705, có hai vị hoà thượng Trí Kiên và Trí Thể quê huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định gặp nhau kết nghĩa làm anh em. Hai nhà sư đều có lòng mộ đạo, muốn đi nhiều nơi để truyền bá đạo Phật và xây dựng các ngôi chùa. Đến đây, thấy núi Bích Động có địa thế tuyệt đẹp và đã có chùa, nên hai nhà sư quyết định dừng chân, tự mình sửa sang chùa cũ, đi quyên giáo xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: Hạ, Trung và Thượng để tu hành. Năm 1707, hai nhà sư Trí Kiên và Trí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở Động Tối.
Khám phá 'Nam thiên đệ tam động' Chùa và động Địch Lộng ở Ninh Bình có tuổi đời gần 500 năm, được mệnh danh là 'Nam thiên đệ tam động'. Chùa và động Địch Lộng được xây dựng vào năm 1740, ban đầu lấy tên Nham Sơn động Cổ Am tự, sau này đổi thành tên chùa Địch Lộng, có nghĩa là 'sáo núi'. Trong ảnh là phủ Đức Ông...