Kênh đào Suez có nguồn gốc từ thời Ai Cập cổ đại
Kênh đào Suez , chạy qua eo đất Suez ơẢi Cập để kết nối Địa Trung Hải và Biển Đỏ. Con kênh này ngăn cách lục địa Châu Phi với Châu Á, và nó cung cấp con đường hàng hải ngắn nhất giữa Châu Âu và các vùng đất nằm quanh Ấn Độ Dương và tây Thái Bình Dương . Đây là một trong những tuyến đường vận chuyển được sử dụng nhiều nhất trên thế giới . Kênh kéo dài 120 dặm (193 km) giưãPort Said ở phía bắc và Suez ở phía nam, với các kênh tiếp cận được nạo vét ở phía bắc của Port Said, vào Địa Trung Hải và phía nam của Suez.
Kênh đào Suez, chạy qua eo đất Suez ở Ai Cập để kết nối Địa Trung Hải và Biển Đỏ. Con kênh này ngăn cách lục địa Châu Phi với Châu Á, và nó cung cấp con đường hàng hải ngắn nhất giữa Châu Âu và các vùng đất nằm quanh Ấn Độ Dương và tây Thái Bình Dương . Đây là một trong những tuyến đường vận chuyển được sử dụng nhiều nhất trên thế giới . Kênh kéo dài 120 dặm (193 km) giữa Port Said ở phía bắc và Suez ở phía nam, với các kênh tiếp cận được nạo vét ở phía bắc của Port Said, vào Địa Trung Hải và phía nam của Suez.
Các Eo đất Suez, cầu nối đất liền duy nhất giữa lục địa Châu Phi và Châu Á, có nguồn gốc địa chất tương đối gần đây. Cả hai lục địa đã từng hình thành một khối lục địa lớn duy nhất, nhưng trong thời kỳ Paleogen và Negene (khoảng 66 đến 2,6 triệu năm trước), các cấu trúc đứt gãy lớn của Biển Đỏ và Vịnh Aqaba đã phát triển. Trong kỷ Đệ tứ tiếp theo (khoảng 2,6 triệu năm qua), có sự dao động đáng kể của mực nước biển, cuối cùng dẫn đến sự xuất hiện của một eo đất thấp mở rộng về phía bắc thành một đồng bằng ven biển mở trũng thấp. Ở đó, châu thổ sông Nile đã từng mở rộng xa hơn về phía đông – do kết quả của các thời kỳ có lượng mưa dồi dào trùng với kỷ Pleistocen (2.588.000 đến 11.700 năm trước) – và hai nhánh sông, hay các phân lưu, trước đây vượt qua eo đất phía bắc, một nhánh đổ ra biển Địa Trung Hải tại điểm hẹp nhất của eo đất, cách biển 9 dặm (14,5 km) về phía đông của cảng Said hiện nay.
Kênh đào Suez có nguồn gốc từ thời Ai Cập cổ đại. Pharaoh Senusret III của Ai Cập có thể đã xây dựng một con kênh đầu tiên nối Biển Đỏ và sông Nile vào khoảng năm 1850 trước Công nguyên, và theo các nguồn cổ xưa, Pharaoh Necho II và người chinh phục Ba Tư Darius đều bắt đầu và sau đó bỏ dở công việc trong một dự án tương tự. Con kênh được cho là đã hoàn thành vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên trong Vương triều Ptolemaic.
Napoléon Bonaparte đã cân nhắc việc xây dựng Kênh đào Suez. Sau khi chinh phục Ai Cập vào năm 1798, Napoleon Bonaparte đã cử một nhóm các nhà khảo sát để điều tra tính khả thi của việc cắt Isthmus của Suez và xây dựng một kênh đào từ Biển Đỏ đến Địa Trung Hải. Nhưng sau bốn chuyến khảo sát, các trinh sát của ông kết luận sai rằng Biển Đỏ cao hơn Địa Trung Hải ít nhất 30 feet. Họ cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào để tạo ra một con kênh đều có thể dẫn đến lũ lụt thảm khốc trên khắp Đồng bằng sông Nile. Tính toán sai lầm của các nhà khảo sát khiến Napoleon sợ hãi và kế hoạch cho một kênh đào bị đình trệ cho đến năm 1847, khi một nhóm các nhà nghiên cứu cuối cùng đã xác nhận rằng không có sự khác biệt nghiêm trọng về độ cao giữa Địa Trung Hải và Biển Đỏ.
Ý tưởng về một con kênh lớn cung cấp một con đường trực tiếp giữa hai vùng nước được thảo luận vào những năm 1830, nhờ công trình của nhà thám hiểm và kỹ sư người Pháp Linant de Bellefonds, chuyên gia về Ai Cập.
Bellefonds đã thực hiện một cuộc khảo sát eo đất Suez và xác nhận rằng Địa Trung Hải và Biển Đỏ, trái với suy nghĩ của mọi người, ở cùng một mức độ cao. Điều này có nghĩa là một con kênh có thể được xây dựng, và làm cho việc xây dựng dễ dàng hơn đáng kể.
Đến những năm 1850, nhìn thấy cơ hội cho Ai Cập và Đế chế Ottoman, Khedive Said Pasha (người giám sát Ai Cập và Sudan cho Ottoman) đã cho phép nhà ngoại giao Pháp Ferdinand de Lesseps thành lập công ty để xây dựng một công ty một con kênh. Công ty đó cuối cùng được biết đến với tên gọi Công ty Kênh đào Suez, và nó được cho thuê 99 năm tuyến đường thủy và khu vực xung quanh.
Công việc xây dựng bắt đầu vào đầu năm 1859, ước tính có khoảng 1,5 triệu người làm việc cho dự án.
Video đang HOT
Ismail Pasha, Khedive của Ai Cập và Sudan, chính thức khai trương kênh đào Suez vào ngày 17 tháng 11 năm 1869.
Kênh đào Suez có nguồn gốc từ thời Ai Cập cổ đại
Khi được mở lần đầu tiên vào năm 1869, kênh đào này bao gồm một kênh chỉ sâu 26 feet (8 mét), rộng 72 feet (22 mét) ở đáy và 200 đến 300 feet (61 đến 91 mét) ở bề mặt. Sau những lần mở rộng và đào sâu liên tiếp, kênh đào vào những năm 1960 có chiều rộng tối thiểu là 179 feet (55 mét) ở độ sâu 33 feet (10 mét) dọc theo bờ của nó và độ sâu của kênh là 40 feet (12 mét) khi thủy triều xuống.
Các kế hoạch được thực hiện vào năm 1964 để mở rộng thêm, đã bị cản trở bởi cuộc chiến Ả Rập-Israel vào tháng 6 năm 1967, kênh đào bị chặn lại. Con kênh vẫn không hoạt động cho đến tháng 6 năm 1975, khi nó được mở cửa trở lại. Năm 2015, chính phủ Ai Cập đã hoàn thành dự án gần 8,5 tỷ đô la để nâng cấp kênh đào và tăng đáng kể sức chứa, kéo dài gần 18 dặm (29 km) so với ban đầu là 102 dặm (164 km).
Vào năm 1870, năm hoạt động đầu tiên của kênh đào, có 486 lượt qua lại, hoặc ít hơn 2 lượt mỗi ngày. Năm 1966 có 21.250 chiếc, trung bình là 58 lượt mỗi ngày. Vào giữa những năm 1980, số lượng quá cảnh hàng ngày đã giảm xuống mức trung bình là 50, nhưng trọng tải thực hàng năm là khoảng 355.600.000 tấn. Năm 2018 có 18.174 lượt vận chuyển với tổng trọng tải thực hàng năm khoảng 1.139.630.000 tấn.
Bản chất của giao thông ngày nay đã thay đổi rất nhiều, đặc biệt là do sự tăng trưởng vượt bậc của các lô hàng dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ từ Vịnh Ba Tư từ năm 1950. Năm 1913, lượng dầu lưu thông theo hướng bắc lên tới 295.700 tấn, trong khi năm 1966 lên tới 168.700.000 tấn. Việc đóng cửa kênh đào từ năm 1967 đến năm 1975 dẫn đến việc sử dụng các tàu chở dầu lớn trên tuyến đường quanh Mũi Hảo Vọng và thúc đẩy sự phát triển của đường ống Sumed từ Suez đến Alexandria, được mở vào năm 1977. Kể từ năm 1975, quy mô ngày càng tăng của tàu chở dầu – loại lớn nhất không thể sử dụng kênh đào – và việc phát triển các nguồn dầu thô ở các khu vực bên ngoài tuyến kênh (ví dụ: Algeria , Libya , Nigeria, Biển Bắc và Mexico ) đã làm giảm tầm quan trọng của kênh đào trong thương mại dầu mỏ quốc tế.
Thần Mặt Trăng Khonsu và nguồn gốc 365 ngày trong năm
Đây là vị thần có ảnh hưởng lớn trong sự ra đời của năm vị thần vĩ đại Osiris, Horus, Isis, Seth và Nephthys. Khonsu là vị thần tạo ra sự sống mới trong tất cả các sinh vật sống.
Ông kết hợp với thần Amun-Ra và thần Mut tạo thành 'Bộ ba Thebes'. Vào thời Vua Ramses III đã cho xây dựng một ngôi đền thờ Khonsu tại Thebes, đặt tên là 'Nefer-hetep, nhà của Khonsu'.
Nguồn gốc 365 ngày trong năm
Khonsu (cũng viết là Chonsu, Khensu, Khons, Chons, Khonshu) là thần cai quản Mặt trăng của Ai Cập cổ đại. Tên ông có nghĩa là "Người du hành", xuất phát từ những chuyến đi vào ban đêm của thần trên mặt trăng. Bạn đồng hành của ông là thần Thoth - vị thần trí tuệ. Ông cũng nắm giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra vũ trụ.
Thần Khonsu thường xuất hiện với bộ dạng một xác ướp, đầu đội chiếc đĩa mặt trăng, tay cầm móc - néo và vương trượng với 3 biểu tượng quyền lực (được cho là liên kết sức mạnh với thần Osiris). Đôi khi ông được miêu tả như một người đàn ông với đầu chim ưng, tương tự 2 thần Ra và Horus nhưng đầu đội đĩa mặt trăng. Khonsu là con của thần AmunRa và Mut hoặc con của Amun-Ra với nữ thần Hathor. Vợ thần là nữ thần mèo Bastet.
Thần là một vị cổ thần có tuổi, tức là một vị thần đáng kính và lão luyện. Nhưng kết cục vẫn thua Thoth phần trí tuệ. Người ta nói rằng khi Khonsu tạo ra trăng khuyết, vầng trăng ấy sẽ khiến phụ nữ mang thai , đàn gia súc trở nên phát triển tốt hơn, bầu không khí xung quanh trở lên trong lành và kỳ diệu. Bên canh đó, Khonsu được thờ phục như vị thần của chữa bệnh, ông được xem là một vị thần y học, do đã chữa lành bệnh cho vua Ptolemy IV và công chúa Bekheten.
Thần Mặt Trăng trong thần thoại Hy Lạp
Tuy nhiên, vào thời kì đầu Ai Cập cổ đại, ông được xem là một vị thần hung ác và nguy hiểm. Khonsu được miêu tả là một vị thần khát máu, chuyên giết những kẻ thù của Pharaoh và lấy nội tạng của họ. Trong "Thánh ca Cannianl", Khonsu là vị thần khát máu. Vào thời Tân vương quốc, ông được thờ với hình ảnh một vị thần hiền từ.
Theo thần thoại, khi các thần còn trị vì trên đất Ai Cập, một năm chỉ có mỗi 360 ngày. Một ngày nọ, thần Ra toàn năng nhận được lời tiên tri rằng một người con của Đất và Trời sẽ lật đổ ngài. Khi đó, hai vị thần Shu và Tefnut kết hôn với nhau, lại đẻ ra một nam một nữ là thần đất Geb và thần bầu trời Nut. Hai anh em họ muốn lấy nhau nhưng vấp phải sự phản đối của thần Ra. Khi thấy hai vị thần Geb và Nut ôm nhau say đắm, thần Ra vô cùng tức giận đã lệnh cho Shu phải chia tách họ ra bằng cách đưa Nut lên trời cao và đè Geb xuống đất. Khi biết Nut có thai, thần Ra tuyên bố Nut "sẽ không sinh con vào bất cứ ngày nào trong năm".
Bấy giờ, 1 năm chỉ có 360 ngày. Nut buồn và tìm đến nhờ cậy thần trí tuệ Thoth, sau khi biết được chuyện nên Thoth đã tìm cách giúp bà. Ông cùng Khonsu đánh cờ, và giao ước nếu Khonsu thua thì phải đưa cho Thoth một phần ánh sáng của mình, còn nếu Khonsu thắng thì sẽ được giết Thoth ngay lập tức.
Ván cờ diễn ra thâu đêm suốt sáng, và trong khoảng thời gian đó người thắng luôn là Thoth. Đơn giản Thoth là vị thần trí tuệ nên Khonsu đã thua ông rất nhiều lần, và số ánh trăng thu được đủ tạo thêm 5 ngày nữa. Năm này mà được thần Thoth tạo ra được gọi là "năm ngày đen tối" và đó chính là năm ngày cuối năm. Trong 5 ngày này, Nut đã hạ sinh 5 vị thần: Osiris, Isis, Set, Nephthys và trong một số truyền thuyết, có cả Horus. Về sau, khi các giáo phái khác nhau hình thành, Horus trở thành con trai của Isis và Osiri. Và cũng từ đây một năm có đến 365 ngày chứ không phải là 360 ngày nữa.
Lễ hội mừng năm mới của Ai Cập cổ đại
Thời cổ đại, đối với người dân Ai Cập thì mỗi dịp cuối năm đều có thể là thời gian tồn tại cuối cùng của mình. Do đó, khi mà các dân tộc trên thế giới đều đón chào năm mới bằng việc ăn mừng cùng những lễ hội vui vẻ, thâu đêm thì với người dân sông Nile cổ đại, đó là một khoảng thời gian của sự trang nghiêm và sợ hãi.
Họ không thể biết chính xác năm mới sẽ đến khi nào, bởi sự kiện này phụ thuộc vào thời gian bắt đầu ngập lụt hàng năm của sông Nile. Mọi việc trở nên tồi tệ hơn khi họ không có những biện pháp để chống chọi lại những đợt lũ lụt đều đặn ấy. Việc đóng cọc cao hơn so với mực nước sẽ khiến phù sa không thể tràn vào để tạo nên lớp đất màu mỡ và họ có thể chết đói trong vụ mùa tới; ngược lại, nếu nước dâng lên quá cao, người dân có thể bị chết đuối...
Sự căng thẳng và lo lắng càng tăng lên khi tín ngưỡng nơi đây tồn tại quan niệm cho rằng, thần Khonsu đã viết xong "Cuốn sách kết thúc của Năm" ("The Book of the End of the Year"), trong đó có danh sách những người được sống và ai sẽ chết trong năm tới. Các vị linh mục đã phải tìm mọi cách để bảo vệ người dân với những câu thần chú ma thuật trong "Cuốn sách ngày cuối cùng của Năm" ("The Book of the Last Day of the Year"), được viết trên giấy cói.
Tuy rằng ai cũng đeo cuốn sách này quanh cổ, nhưng không họ dám đi bộ ra những vùng lân cận, đặc biệt là khi với một cái cổ không có gì trong các ngày có đầy rẫy những nguy hiểm rình rập. Các mối lo ngại và sự sợ hãi trong khoảng khắc đón chào năm mới cho thấy cuộc sống rất mong manh và bấp bênh của người Ai Cập lúc đó. Nơi đây đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về năm mới. Bởi cuộc sống đương thời của họ gắn với sông Nile nên sự xuất hiện của năm mới đã gắn liền với hiện tượng lũ lụt hàng năm.
Theo truyền thuyết, thần Sah (Orion) và Sopdet (Sirius) bị địa ngục Duat nuốt chửng trong thời gian Xuân phân và 70 ngày sau, các vị thần đó đã xuất hiện trở lại. Sự kiện này diễn ra hàng năm ngay trước khi vùng đất sông Nile bị ngập lụt. Thế giới Manu là nước nguyên sinh của sự sáng tạo, do thần Nun làm chủ, sẽ tuôn trào trong tháng chín Tepi, thời gian vô tận của cõi vĩnh hằng.
Do bị chi phối bởi sự kiện lũ lụt hàng năm của sông Nile, nên ngày Tết của người Ai Cập cổ không được tổ chức vào một ngày cố định. Thông thường, năm mới của họ rơi vào tháng 7, trùng với ngày Hạ chí. Theo lịch của cư dân bản địa đương thời, thời gian trong năm được tính là 360 ngày. Thời gian giao thời của cuối năm cũ - đầu năm mới được gọi là "5 ngày của năm", trong đó, ngày đầu tiên được quan niệm là thời gian tái sinh của thần Sah - vị thần của sự sống và sự phục sinh.
Trong thời hạn 5 ngày đó, ngôi sao Sirius sẽ xuất hiện trở lại trên bầu trời và chòm sao Orion sẽ trở nên hữu hình. Điều này trở nên quan trọng kể từ khi Sirius được coi là biểu hiện của tâm hồn Sopdet và Orion là biểu hiện của Sah. Đây là cuộc hội ngộ của người Mẹ và người Cha thánh thần. Với những người làm nhiệm vụ cắt xẻ đá và trang trí các ngôi mộ Hoàng gia trong Thung lũng những vị vua, họ có tổng số 9 ngày nghỉ: 1 ngày cuối cùng của năm, 5 "ngày của năm" và 3 ngày đầu tiên của năm mới. Đây cũng là dịp để người Ai Cập tiến hành các lễ kỷ niệm tuyệt vời với việc ăn uống no nê.
Hé lộ bí ẩn về bùa yêu cách đây 1.300 năm của người Ai Cập cổ đại Mới đây các nhà khảo cổ học ở Đức đã tình cờ tìm được 1 mảnh giấy coi được cho là bùa yêu của người Ai Cập cổ đại cách đây 1.300 năm. Theo Tiến sĩ Korshi Dosoo đến từ đại học Julius Maximilians ở Đức, mảnh giấy được tìm thấy có đặc điểm nổi bật nhất là mảnh giấy cói trong mảnh...