Hữu Nghị chuẩn bị tăng vốn gấp rưỡi, lên 300 tỷ đồng
Nếu chào bán thành công cổ phần cho cổ đông hiện hữu trong tháng 2 này, vốn điều lệ của hãng bánh kẹo Hữu Nghị sẽ tăng lên 300 tỷ đồng.
CTCP Thực phẩm Hữu Nghị (mã HNF) sắp chốt danh sách cổ đông cho đợt chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu vào ngày 26/2 tới đây. Theo đó, cổ đông sở hữu 2 cổ phần sẽ nhận quyền mua thêm 1 cổ phần mới.
Nếu chào bán thành công, vốn điều lệ của hãng bánh kẹo này sẽ tăng gấp rưỡi lên 300 tỷ đồng.
Thời gian nhận đăng ký mua và nộp tiền là từ 6/3 đến 26/3. Các cổ đông có quyền chuyển nhượng quyền mua cổ phiếu trên từ 6/3 đến 20/3.
Giá chào bán mỗi cổ phiếu là 10.000 đồng. Số vốn huy động dự kiến (100 tỷ đồng) sẽ dùng để chi trả công nợ vay ngắn hạn và bổ sung nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Hữu Nghị chuẩn bị tăng vốn gấp rưỡi. Ảnh minh họa
Công ty Cổ phần Thực phẩm Hữu Nghị, tiền thân là Nhà máy bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị, được thành lập và chính thức hoạt động vào ngày 8/12/1997. Đến năm 2006, sau 9 năm hoạt động, Nhà máy bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị được cổ phần hóa và đổi tên thành Công ty Cổ phần bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị.
Video đang HOT
Năm 2007, Hữu Nghị cơ bản xây dựng xong hệ thống phân phối tại 32 tỉnh thành từ Huế trở ra phía Bắc.
Đến năm 2008 thì Hữu Nghị đánh dấu mốc Nam tiến với việc triển khai hệ thống phân phối ở miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam.
Tháng 6/2009, Công ty Cổ phần bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị chính thức đổi tên thành Công ty Cổ phần thực phẩm Hữu Nghị.Cùng với đó, Hữu Nghị chính thức triển khai xây dựng hệ thống Bakery Hữu Nghị đầu tiên tại Hà Nội.
Năm 2010, Hữu Nghị tiếp tục nâng cấp hệ thống phân phối nội địa, thành lập phòng xuất khẩu, tiếp tục mở rộng hệ thống Bakery.
Bước sang năm 2016, bên cạnh mặt hàng chủ lực là bánh kẹo, Hữu Nghị chính thức tham gia phân phối ngành nước chấm, gia vị.
Được biết, kể từ sau khi Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam thoái toàn bộ vốn tại doanh nghiệp này từ năm 2017, quy mô tài sản của Thực phẩm Hữu Nghị mở rộng nhanh, từ hơn 885 tỷ đồng cuối năm 2017 tăng lên 1.426 tỷ đồng cuối kỳ trước. Phần lớn do công ty tăng đầu tư vào tài sản cố định. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang đã tăng từ 42 tỷ đồng lên 124 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, công ty cũng đang bị găm vốn nhiều hơn do trả trước cho các nhà cung cấp. Quy mô doanh thu của hãng bánh kẹo này cũng tăng trong hai năm qua, mức tăng trưởng lần lượt là 23% (năm 2018) và 3,6% (năm 2019). Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận gộp giảm, chi phí bán hàng tăng, lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2019 chỉ đạt 41 tỷ đồng, thấp hơn kết quả đạt được hai năm trước.
Vũ Đậu (T/h)
Theo doisongphapluat.com
Chục tỉ USD "nằm kho"
Bài toán tối ưu hóa quản lý vốn lưu động để gia tăng hiệu quả chuyển đổi tiền mặt từ hoạt động.
Nguồn ảnh: Quý Hoà
Trong báo cáo nghiên cứu mới nhất với tiêu đề "Tăng trưởng bền vững và khả năng thanh khoản" lần 2 của PwC Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam hiện có hơn 24 tỉ USD đang bị tồn đọng trong vốn lưu động thuần của năm tài chính 2018. Kết quả báo cáo được đưa ra từ những phân tích chuyên sâu về tình hình quản trị vốn lưu động của 509 công ty đại chúng lớn nhất theo doanh thu và thuộc 15 nhóm ngành khác nhau. Các doanh nghiệp này đã và đang được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Đánh đổi tăng trưởng doanh thu
Với sự tăng trưởng không ngừng của ngành kinh tế trong những năm qua, thị trường Việt Nam đang ngày càng đòi hỏi sức cạnh tranh cao hơn. Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã mở ra nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời đi kèm với đó là những thách thức cho doanh nghiệp. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh chóng như hiện
nay, các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc tối ưu hóa quản lý vốn lưu động để gia tăng hiệu quả chuyển đổi tiền mặt từ hoạt động, nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay mượn để phát triển một cách bền vững.
Nhận xét về hiệu quả quản lý vốn lưu động ở doanh nghiệp Việt Nam, ông Mohammad Mudasser, đứng đầu mảng dịch vụ tư vấn quản lý vốn lưu động của PwC Việt Nam, nhấn mạnh: "Hiệu quả sử dụng vốn lưu động đã và đang bị đánh đổi để đạt được tăng trưởng doanh thu. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực hoạt động bền vững của doanh nghiệp. Quản lý vốn lưu động chỉ đạt hiệu quả tối ưu khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban và sự ủng hộ từ các cấp lãnh đạo trong việc thiết lập văn hóa tiền mặt cho doanh nghiệp".
Mặc dù tốc độ tăng trưởng doanh thu của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn năm tài chính 2017-2018 vẫn ấn tượng ở mức 15% nhưng biên lợi nhuận chưa tăng trưởng ở mức tương ứng (chỉ 3%). Nguyên nhân là do quản lý chi phí kém hiệu quả. Chính điều này đã khiến cho tỉ suất sinh lời trên vốn dài hạn (ROCE) của các doanh nghiệp trong phạm vi nghiên cứu tiếp tục xu hướng suy giảm, riêng trong năm 2018 đã giảm 6,7 điểm phần trăm.
Theo đánh giá của PwC Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam trong năm tài chính 2018 cũng ghi nhận suy giảm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động so với năm trước, đồng thời còn nhiều hạn chế so với các nước trong khu vực châu Á cũng như so với thế giới về chu kỳ tiền mặt (C2C). C2C năm tài chính 2018 đã được ghi nhận lâu hơn 2 ngày đối với các doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam so với năm 2017, đạt 67 ngày. Nhìn rộng ra các nước khu vực, số ngày C2C này cao hơn 9 ngày so với trung vị châu Á và cao hơn đến 13 ngày so với Malaysia.
Cơ hội giải phóng tiền mặt
Một vấn đề lớn khác của các doanh nghiệp nằm ở lượng tiền mặt lên đến 24,1 tỉ USD đang bị tồn đọng trong vốn lưu động thuần của doanh nghiệp Việt Nam, tăng gấp đôi chỉ sau 1 năm. Tuy nhiên, PwC Việt Nam cũng nhận định cơ hội giải phóng tiền mặt trong năm tài chính 2018 chiếm khoảng 50% vốn lưu động thuần, lên đến 11,3 tỉ USD. Riêng cơ hội đối với ngành hàng tiêu dùng và ngành kỹ thuật và xây dựng chiếm khoảng 1/3 tổng lượng tiền mặt có thể được giải phóng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp Việt Nam với tăng trưởng doanh thu 4 năm gần nhất cao hơn trung vị thị trường đã gia tăng việc sử dụng nợ vay ngắn hạn. CAGR nợ vay ngắn hạn của các doanh nghiệp này trong 4 năm gần nhất lên đến 13,5%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng doanh thu. Việc này tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khả năng hoạt động bền vững của thị trường nói chung và doanh nghiệp nói riêng.
Một nghịch lý trong những năm gần đây đối với doanh nghiệp Việt Nam là tình trạng phụ thuộc vào nguồn vốn vay mượn trở nên phổ biến, trong khi lượng tiền mặt bị tồn đọng trong vốn lưu động ngày một gia tăng. Đây lại là nguồn vốn giá trị cao mà doanh nghiệp thường xuyên bỏ qua và là nguồn vốn thích hợp nhất cho doanh nghiệp với những lợi ích về chi phí cũng như tính sẵn có trong nội tại. Việc tận dụng nguồn vốn này có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, giúp kiểm soát và giải phóng tiền mặt còn tồn đọng, từ đó giúp tối ưu hóa hiệu quả doanh nghiệp.
Để gia tăng lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải chủ động cải thiện hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Trước hết, doanh nghiệp cần đảm bảo các cấp điều hành doanh nghiệp hiểu được tầm quan trọng của vốn lưu động, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn lưu động. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tích hợp chuyên môn, hệ thống thông tin, phân tích dữ liệu tối ưu nhất để cải thiện quy trình quản lý, cần phối hợp với các bên liên quan nhằm làm giảm lượng vốn lưu động trong nội tại doanh nghiệp cũng như xuyên suốt chuỗi cung ứng.
Theo nhipcaudautu.vn
PwC: Hơn 24 tỷ USD tồn đọng trong vốn lưu động của doanh nghiệp tại Việt Nam Nhận xét về hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam, ông Mohammad Mudasser, Lãnh đạo Dịch vụ tư vấn Quản lý vốn lưu động của PwC Việt Nam cho rằng, hiệu quả sử dụng vốn lưu động đã và đang bị đánh đổi để đạt được tăng trưởng doanh thu, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới năng lực...