Hướng đi mới cho “Make in Viet Nam”
Chiến lược “Make in Viet Nam” với hàm ý “Doanh nghiệp (DN) Việt Nam phấn đấu từng bước làm chủ về công nghệ, chủ động thiết kế, chế tạo các sản phẩm, chủ động trong sáng tạo các dịch vụ, giải pháp, mô hình kinh doanh mới” đang tạo một làn gió mới cho sự đổi thay, tiến bộ vượt bậc của nhiều DN trong nước.
Tiếp nối những thành công của chiến lược trong thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề ra những hướng đi mới hơn cho “Make in Viet Nam” giai đoạn 2021-2025.
Trong giai đoạn 5 năm (2016-2020), ngành công nghiệp ICT Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với tốc độ tăng trưởng trung bình 26,1%/năm, trở thành một trong những ngành kinh tế có doanh thu lớn, đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước. Năm 2020, doanh thu ước đạt 120 tỷ USD, trong đó doanh thu công nghiệp phần cứng đạt trên 107 tỷ USD, doanh thu công nghiệp phần mềm đạt trên 5 tỷ USD, doanh thu công nghiệp nội dung số đạt trên 900 triệu USD. Tính đến năm 2019, về cơ bản lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông tin đã hoàn thành được mục tiêu đến năm 2020 mà Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo. Trong đó, công nghiệp công nghệ thông tin có tốc độ tăng trưởng trung bình là 14,7%, cao hơn nhiều lần mức tăng trưởng kinh tế, cao hơn chỉ tiêu ngành (chỉ tiêu 10%). Công nghiệp phần mềm duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trung bình giai đoạn 2016-2018 là 15%. Công nghiệp phần cứng, điện tử, viễn thông tốc độ tăng trưởng trung bình là 20,24%. Công nghiệp nội dung số tốc độ tăng trưởng trung bình là 7,47%. Kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử đạt hơn 93 triệu USD.
Đặc biệt, giai đoạn 2016-2019, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về sản xuất công nghiệp phần cứng, điện tử – viễn thông (đứng thứ 2 về sản xuất điện thoại và linh kiện, thứ 10 thế giới về sản xuất điện tử và linh kiện, vượt qua nhiều cường quốc, như: Hoa Kỳ, Đức, Ấn Độ, Brazil, Singapore). Đây là 2 mặt hàng chiếm vị trí số 1 và 3 trong danh sách 10 sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đưa ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu và xuất siêu lớn nhất của nền kinh tế. Năm 2019, xuất siêu trong lĩnh vực phần cứng, điện tử ước đạt 28 tỷ USD. Việt Nam đứng thứ 13 thế giới về dịch vụ công nghệ số. Về phát triển DN công nghệ số, đã hình thành đội ngũ DN trong nước với những nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm và dịch vụ công nghệ thông tin, điện tử viễn thông có thương hiệu trong nước và quốc tế. Một số DN đã chú trọng nghiên cứu, phát triển sản phẩm, giải pháp mới dựa trên công nghệ 4.0.
Định hướng cho giai đoạn 2020-2025, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ tiếp tục xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông Việt Nam có tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm gấp 2 – 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước, đứng đầu trong các ngành có giá trị hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Ngành công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, có thương hiệu quốc gia và thứ hạng cao trên thương trường quốc tế. Các DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, thực hiện thành công chủ trương làm chủ công nghệ, nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam, góp phần hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Video đang HOT
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng trao giải thưởng “Sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam năm 2020″
Đến năm 2025, Việt Nam có khả năng chủ động trong việc sản xuất được các sản phẩm, giải pháp công nghệ thông tin, điện tử các thiết bị viễn thông quan trọng phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước. Về năng lực công nghiệp công nghệ thông tin tại địa phương yêu cầu tối thiểu 10 địa phương đạt doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin trên 1 tỷ USD, phải phát triển được lõi công nghệ và sản phẩm trong tài chính, thương mại, nông nghiệp, sinh học và đối phó với biến đổi khí hậu, sản xuất công nghiệp, an ninh quốc gia bao gồm an ninh mạng và các công nghệ số trong quốc phòng. Sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin sản xuất trong nước chiếm 50-70% thị trường mua sắm của các cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực chuyên sâu về các lĩnh vực công nghệ tiên tiến (IoT, AI, dữ liệu lớn…) của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; đưa Việt Nam trở thành một trong những nhà sản xuất thiết bị điện tử – viễn thông, xuất khẩu phần mềm, xuất khẩu dịch vụ công nghệ thông tin lớn của thế giới và đưa công nghệ công nghiệp 4.0 trở nên phổ cập ở Việt Nam; số lượng DN công nghiệp công nghệ thông tin đạt trên 70.000 DN, trong đó tối thiểu 10 DN đóng vai trò dẫn dắt, có năng lực cạnh tranh quốc tế, doanh thu trên 1 tỷ USD. Cùng với đó là phát triển DN công nghệ số Việt Nam theo Chỉ thị số 01/CT-TTg năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển DN công nghệ số Việt Nam; xây dựng Chiến lược phát triển DN công nghệ số Việt Nam với định hướng thúc đây phát triển 4 loại hình DN công nghệ số với mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam có 100.000 DN công nghệ số. Đồng thời, tạo điều kiện và tập trung chỉ đạo các DN Việt Nam thực hiện sứ mệnh đầu tư vào nghiên cứu sản xuất các giải pháp, sản phẩm công nghệ số làm chủ và phát triển được sản phẩm thương mại đó là trong công nghệ mạng viễn thông và các thiết bị 5G và phát triển hệ sinh thái 5G vào các năm tiếp theo, công nghệ trí tuệ nhân tạo, IoT, phân tích dữ liệu lớn.
Diện mạo tươi sáng của nền kinh tế sau 35 năm đổi mới
Nhận định khái quát về nền kinh tế nước ta sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên".
Việt Nam mở cửa nền kinh tế đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, phát triển (Trong ảnh: Sản xuất thiết bị điện tử tại Công ty UMC Việt Nam, Hải Dương). Ảnh: QUANG PHÚC
Thành tựu phát triển ấn tượng qua những con số
Bước vào tiến trình đổi mới với quyết tâm hội nhập quốc tế cách đây 35 năm, Việt Nam vẫn còn là một đất nước với nền sản xuất lạc hậu, khép kín. Kiên định thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa, trong giai đoạn 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%.
Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; đặc biệt, xuất khẩu gạo đạt 3,477 triệu tấn, gấp hơn 26 lần. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,09% mỗi năm trong thời kỳ 1986-2000; sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; sản lượng thép cán gấp 25,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41.000 tấn năm 1986 lên 16,3 triệu tấn năm 2000.
Chế biến thủy sản tại một doanh nghiệp ở TPHCM. Ảnh: VIỆT DŨNG
Trong khi đó, tình trạng "siêu lạm phát" bước đầu đã được kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số mỗi năm trong 3 năm 1986-1988, rồi 2 chữ số mỗi năm trong thời kỳ 1989-1992, đã giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong thời kỳ 1993-2000. Đơn cử, so với tháng 12 năm trước đó, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng 349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 thậm chí còn giảm 0,6%.
Tiếp tục đà phát triển, thời kỳ 2001 đến nay, chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng đã đơm hoa kết trái. Với 2 chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (chiến lược 2001-2010 và chiến lược 2011-2020), kinh tế đã liên tục tăng trưởng, với GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. GDP bình quân hàng năm trong giai đoạn 2001-2010 tăng 7,26%. Trong giai đoạn 2011-2019, GDP tăng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% - mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 đến nay.
Cũng từ năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ kém phát triển, để gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Và theo số liệu mới nhất từ cơ quan thống kê quốc gia, năm 2020, quy mô nền kinh tế nước ta đạt khoảng 343 tỷ USD (quy đổi) và GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD, gấp hàng chục lần so với năm 1990. Quan trọng hơn, chất lượng tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu. Năng suất lao động trong giai đoạn 2016-2019 của toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
Đáng lưu ý, nhờ hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương thực hiện trong giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Đây là chỉ dấu cho thấy chúng ta đã khai thác được thế mạnh của kinh tế trong nước và tranh thủ được thị trường thế giới. Điều này còn được minh chứng qua việc đầu tư nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ... Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Vị thế và động lực tăng trưởng mới
Cùng với những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP; là một trong 30 nước có mức tăng trưởng xuất, nhập khẩu cao và là nền kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ... Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới. Hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng và khẳng định rõ bản lĩnh và bản sắc của Việt Nam với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào hòa bình, hợp tác và phát triển, không chỉ trong khu vực ASEAN mà còn cả trên thế giới.
Nhiều động lực tăng trưởng mới được xây dựng. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, số doanh nghiệp thành lập mới tăng nhanh cả về số lượng và vốn đăng ký, làn sóng khởi nghiệp sáng tạo lan tỏa rộng với nhiều mô hình kinh doanh độc đáo. Nguồn nhân lực có kỹ năng, được đào tạo bài bản, có khả năng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh được chú trọng phát triển, tạo tiềm lực phát triển kinh tế hiện đại trên nền tảng khoa học - công nghệ. Hệ thống hạ tầng quốc gia được tập trung nguồn lực xây dựng một cách đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
Trong đầu thế kỷ 21, bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội trên bình diện quốc tế đã có nhiều thay đổi, biến động nhanh, khó dự báo. Một hệ thống giải pháp có tính khuôn mẫu và cứng nhắc sẽ khó lòng đạt hiệu quả mong muốn. Trong quá trình tự kiểm chứng những chính sách và cuộc sống, đối chiếu lý luận và thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã và đang rút ra những bài học sâu sắc cho công tác điều hành chính sách vĩ mô, chủ động và vững vàng bước vào thập kỷ mới, giai đoạn phát triển mới.
Khoa học và công nghệ góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững Trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Giáo sư, Viện sỹ Châu Văn Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Đại biểu tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã có cuộc trao đổi với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam về...