HTX đất 9 rồng “thay áo” (Bài cuối): Thiếu HTX, không có liên kết
Đó là khẳng định của TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) về vai trò của các HTX đối với quá trình hình thành các chuỗi liên kết sản xuất ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
TS.Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và PTNT.
Cánh tay kéo dài giúp nông dân
Với một vùng có nhiều đặc thù như ĐBSCL, theo ông, vai trò của các hợp tác xã (HTX) được thể hiện như thế nào?
- ĐBSCL là vùng sản xuất hàng hóa lớn nhất Việt Nam, cung cấp tới 90% sản lượng gạo, 50% sản lượng trái cây, 70% sản lượng thủy sản xuất khẩu (XK) của cả nước. Đây cũng là những mặt hàng có thế mạnh của vùng, sản xuất tập trung với quy mô lớn. Rất nhiều HTX, tổ hợp tác của vùng cũng hoạt động sản xuất, kinh doanh 3 mặt hàng đó.
Nhiều HTX ở ĐBSCL xây dựng các mô hình sản xuất ứng phó với BĐKH như tôm – lúa, trồng lúa chịu mặn. Ảnh: T.L
Nhưng ĐBSCL cũng là vùng phải chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH). Theo đánh giá của các chuyên gia, Việt Nam là 1 trong 5 nước chịu tác động xấu bởi BĐKH, trong đó ĐBSCL là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với những biểu hiện như xâm nhập mặn, sạt lở, ô nhiễm… Trong khi đó, cuộc sống của người dân khu vực này còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, chất lượng nguồn nhân lực thấp.
Muốn phát triển nông nghiệp hàng hóa thì phải hình thành các chuỗi liên kết, có thể thấy, ĐBSCL không thiếu những doanh nghiệp đầu tàu trong XK gạo, trái cây, thủy sản nhưng vẫn đang vắng bóng những tổ chức nông dân. Nếu không có những tổ chức này, việc hình thành các chuỗi liên kết sẽ khó hoàn hảo.
Video đang HOT
Xuất phát từ thực tế đó, nếu HTX được hỗ trợ phát triển thì đây chính là cánh tay kéo dài giúp nông dân nâng cao trình độ sản xuất. HTX sẽ là đầu mối để hình thành các chuỗi giá trị, từ đó hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa và sức cạnh tranh.
Quan trọng hơn, các HTX sẽ góp phần giúp nông dân biến những bất lợi do BĐKH mang lại thành nguồn lợi có thể khai thác, nói cách khác là lợi dụng nó để phát triển và thích ứng với BĐKH như xu hướng chung của toàn cầu. Những điều này chỉ có thể làm được khi có các hoạt động tập thể, chứ không thể dựa vào một cá nhân riêng lẻ.
Hiện trạng của các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp ở ĐBSCL hiện nay ra sao, thưa ông?
- Trước năm 2016, cả khu vực ĐBSCL có khoảng 1.400 HTX, trong đó có 1.250 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp (riêng lúa gạo chiếm đến 1.000 HTX).
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 445/QĐ-TTg thí điểm phát triển các HTX kiểu mới ở khu vực ĐBSCL, số lượng HTX trên địa bàn đã có sự tăng trưởng đột biến. Chỉ trong 2 năm 2017 – 2018, đã có 502 HTX được thành lập mới, tốc độ thành lập mới HTX của khu vực ĐBSCL đứng thứ 2 cả nước.
Điều đáng ghi nhận là, tất cả các HTX mới thành lập đều là các HTX chuyên ngành. Trước đây có những lĩnh vực ít có sự tham gia của HTX như thủy sản, trái cây thì nay đã xuất hiện những đơn vị hoạt động vô cùng hiệu quả, doanh thu lên đến cả chục tỷ đồng. Chưa kể, những HTX này áp dụng hệ thống quản trị đạt chất lượng cao, ví dụ nhiều HTX nuôi trồng thủy sản áp dụng hệ thống ASC, GlobalGAP… Có tới 55% số HTX đạt tiêu chuẩn khá, giỏi theo tiêu chí của Bộ NNPTNT (trước năm 2016 chỉ khoảng 20%). Quy mô của HTX cũng tăng, trước năm 2016, bình quân 1 HTX khu vực ĐBSCL chỉ có 77 thành viên thì nay tăng lên 130 thành viên, từ chỗ chỉ quản lý 87ha sản xuất tăng lên 135ha.
Đặc biệt, có 33% số HTX liên kết với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra cho nông sản, vấn đề sơ chế, chế biến sau thu hoạch đã được nhiều HTX quan tâm. Như vậy, có thể thấy, chỉ trong vòng 2 năm, các HTX ở ĐBSCL đã có sự phát triển vượt bậc cả về lượng và chất.
Trong việc thích ứng với BĐKH, nhiều HTX giúp nông dân, các thành viên lựa chọn các cây – con giống mới phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng như lúa chịu mặn, tổ chức cho nông dân xuống giống đồng trà, ứng dụng công nghệ quan trắc đánh giá tác động của BĐKH để từ đó điều chỉnh cơ cấu mùa vụ cho phù hợp. Ví dụ, mô hình tôm lúa có lợi nhuận 52,2 triệu đồng/ha, trong khi canh tác thuần chỉ 39,2 triệu đồng/ha, mô hình làng thông minh ở Bạc Liêu là sự kết hợp của 4 thành phần gồm: Ứng dụng công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ thông tin BĐKH, tập huấn, lập kế hoạch phát triển…
Cần thêm chính sách hỗ trợ
Như nhiều HTX ở các địa phương khác, các HTX ở ĐBSCL cũng đang gặp không ít khó khăn, chính sách nhiều nhưng lại chưa nhận được hỗ trợ. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
- Đây là một điểm nghẽn trong phát triển HTX hiện nay. Dù là vùng sản xuất hàng hóa lớn nhất cả nước nhưng những chính sách hỗ trợ cho phát triển HTX ở khu vực ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Trong khi đó, để xây dựng được một HTX phát triển mạnh không thể trong ngày một ngày hai.
Có thể thấy, các HTX thuộc khu vực ĐBSCL đang gánh vác một trọng trách nặng nề khi phải tổ chức sản xuất trên diện tích 1,7 triệu ha lúa, 700.000ha nuôi trồng thủy sản, 300.000ha trồng cây ăn trái nhưng lại đang thiếu vắng sự hỗ trợ, bệ đỡ của một hệ thống chính sách sát thực tế.
Đó là chưa kể, nhân lực cho HTX đang là một vấn đề phải bàn khi đội ngũ cán bộ HTX chủ yếu đã già, trình độ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cho sản xuất ở nhiều địa phương còn thiếu, gây khó khăn cho hoạt động của HTX.
Để hóa giải những thách thức này, cần có các giải pháp gì?
- Những lợi ích mà HTX ở ĐBSCL mang lại cho cộng đồng, thành viên trong ứng phó với BĐKH rất đa dạng (tăng năng suất, giảm chi phí, giảm rủi ro, giảm phát thải, sử dụng hiệu quả nguồn lực nước, đất, hạn chế ô nhiễm…) vì vậy cần hỗ trợ hướng dẫn để các HTX chủ động lập kế hoạch ứng phó với BĐKH song song với kế hoạch sản xuất, kinh doanh; bổ sung danh mục hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với HTX nông nghiệp; khuyến khích sự tham gia của người dân vào HTX thông qua các cơ chế tạo lập tài sản không chia của HTX như hỗ trợ đất đai làm kho, nhà xưởng chế biến… Thực tiễn ở nhiều địa phương ĐBSCL cho thấy, nếu có những hỗ trợ thiết thực mà không phải là những chính sách “chay”, HTX ở đó hoạt động rất hiệu quả.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Đưa vốn ngoại đến từng mô hình sản xuất
Một trong những điểm khác biệt và ấn tượng trong hoạt động của Hội ND tỉnh Hòa Bình là sự tích cực huy động, tranh thủ sự giúp đỡ từ các nguồn viện trợ nước ngoài giúp cho hoạt động Hội và phong trào nông dân có nhiều đổi mới.
Nâng cao năng lực cho cán bộ Hội
Những năm qua, Hội ND tỉnh Hòa Bình đã tích cực, chủ động tham mưu cho Tỉnh ủy, đề xuất với UBND tỉnh về các nguồn viện trợ nước ngoài có khả năng hỗ trợ đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên, nông dân. Theo đó, từ năm 2011 đến nay, mỗi năm Hội ND đã thu hút vận động tài trợ từ các nguồn nước ngoài được trên 2 tỷ đồng để thực hiện các chương trình hỗ trợ nông dân ơrở các địa phương trong tỉnh.
Trao đổi với phóng viên, bà Nguyễn Thị Cẩm Phương - Chủ tịch Hội ND tỉnh cho biết: Hoà Bình là tỉnh miền núi, có 10 huyện và 1 thành phố với 210 xã, phường, thị trấn (trong đó có 86 xã đặc biệt khó khăn). Điều kiện đi lại không thuận lợi, kinh tế chưa phát triển, thu ngân sách của địa phương hạn chế, vì vậy nguồn lực để hỗ trợ cho hoạt động công tác Hội và phong trào nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Hội ND Hòa Bình hiện có 133.347 hội viên, sinh hoạt tại 1.935 chi Hội thuộc 208 cơ sở Hội.
Tham gia tổ hợp tác nuôi bò sữa do Hội ND thành lập, nhiều nông dân xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn đã có thu nhập cao. ảnh: Thu Hà
Từ kinh nghiệm phối hợp tổ chức Oxfam Đoàn kết Bỉ giai đoạn 2001 - 2011, từ năm 2011 trở lại đây Hội ND tỉnh Hòa Bình đã ký chương trình hợp tác với các hàng chục tổ chức như: Oxfam Anh, Hà Lan, Hongkong; Tổ chức ADDA, DDS (Đan Mạch); Chương trình quản trị đất vùng sông Mekong; Tổ chức Bánh mỳ cho thế giới; Tổ chức FAO...
Theo đó, giai đoạn đầu hợp tác với các tổ chức nước ngoài, Hội ND tỉnh Hòa Bình đã tập trung định hướng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ Hội các cấp. Hơn 350 tập huấn viên là cán bộ Hội từ tỉnh đến cơ sở được tham gia huấn luyện trong các lĩnh vực như: Viết đề xuất và quản lý dự án, phân tích cộng đồng; kỹ năng quản lý điều hành nhóm, lập kế hoạch sản xuất kinh doanh có sự tham gia; phương pháp ghi chép, tính toán sổ sách kinh tế hộ; các kỹ năng khuyến nghị và đối thoại chính sách. Thông qua hoạt động đó, có hàng ngàn hội viên, nông dân được đào tạo, tập huấn khoa học kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất, tiếp cận thông tin thị trường trong quản lý kinh tế hộ, kinh tế hợp tác...
Quan tâm hỗ trợ hội viên, nông dân
Từ nguồn viện trợ của các tổ chức nước ngoài, Hội ND tỉnh Hòa Bình tập trung tổ chức các hoạt động hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình kinh tế tập thể theo hướng phát triển nhóm hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã. Đến nay, các cấp Hội đã hỗ trợ, duy trì 332 nhóm nông dân cùng sở thích về chăn nuôi, trồng trọt, canh tác theo phương pháp hữu cơ.
Với phương pháp cầm tay chỉ việc, đào tạo ngay trên đồng ruộng và thực tế, hầu hết, các nhóm đã biết lập kế hoạch sản xuất và kinh doanh dựa trên việc thu thập thông tin nhu cầu và mong đợi của cộng đồng. Ban đầu từ các nhóm sở thích, đến nay đã thành lập, duy trì được 208 tổ hợp tác, 28 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, dịch vụ và chăn nuôi phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng.
Bà Cẩm Phương phấn khởi cho biết: Kết quả nổi bật thứ 3 mà Hội ND tỉnh thực hiện được từ nguồn việc trợ nước ngoài đó là xây dựng bộ công cụ giám sát cộng đồng. Cụ thể, các mô hình "Đồng thuận giữa chính quyền và người dân trong quản lý sử dụng đất giai đoạn 2016 - 2020"; mô hình "Công dân giám sát quản lý đất đai"; mô hình "Thúc đẩy công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước"... do Hội xây dựng đã được triển khai thực hiện và nhân rộng.
Theo Danviet
TP.HCM: Cung ứng gần 100 tấn cá đặc sản, "thượng đế" tha hồ ăn Tết Ông Vũ Đình Đàm - Giám đốc Hợp tác xã thủy sản du lịch sinh thái Làng Bè (xã Hiệp Hòa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai) vừa cho biết, Tết năm nay, các thành viên HTX sẽ cung cấp ra thị trường Tết gần 100 tấn đặc sản cá nước ngọt. Ông Vũ Đình Đàm - Giám đốc Hợp tác xã thủy sản du...