Họp ĐHĐCĐ NT2: Lợi nhuận 6 tháng ước đạt 400 tỷ đồng, hoàn thành 65% kế hoạch năm
NT2 thông qua phương án chia cổ tức bằng tiền 25% cho năm 2019.
Công ty đặt kế hoạch lợi nhuận giảm 18% còn 620 tỷ đồng năm 2020, riêng 6 tháng ước đạt 400 tỷ đồng.
Công ty sẽ có lợi thế lớn khi trả hết nợ nước ngoài vào tháng 6/2021 và hết khấu hao vào năm 2025.
Sáng ngày 17/6, CTCP Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (HoSE: NT2) đã tổ chức họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2020.
Chia cổ tức 25% cho năm 2019
Năm 2019, công ty ghi nhận sản lượng điện điện sản xuất hơn 4,95 tỷ kWh, vượt 6% kế hoạch năm và sản lượng lũy kế từ khi phát điện đến nay là 40,6 tỷ kWh. Tổng doanh thu 7.741 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 754 tỷ đồng, giảm 4%.
2019 cũng là năm có tình hình diễn biến phức tạp do tình trạng thiếu khí kéo dài, phân bổ sản lượng thấp hơn năm trước. Lượng khí cung cấp chỉ đạt trung bình 2,6 triệu sm3/ngày trong khi nhu cầu phát cao là 3,1 triệu sm3/ngày, công ty phải huy động thêm nhiệt điện chạy dầu.
Với kết đạt được, NT2 muốn chia cổ tức cho năm 2019 là 25% bằng tiền, tương đương số tiền 720 tỷ đồng. Trong đó công ty đã tạm ứng 10% và sẽ chia thêm 15% thời gian tới.
Xây dựng kế hoạch cho năm 2020, công ty đề ra chỉ tiêu sản lượng điện 4,5 tỷ kWh. Tổng doanh thu dự kiến hơn 7.177 tỷ đồng, giảm 7% và lợi nhuận sau thuế 620 tỷ đồng, giảm 18% so với năm trước. Kế hoạch chia cổ tức 20% cho năm 2020.
Trong năm 2020, NT2 có kế hoạch dừng các tổ máy để thực hiện công tác trung tu trong 32 ngày. Cũng do thiếu khí, công ty dự kiến chạy nhiệt điện dầu với khối lượng 3.676 m3 đồng thời tìm kiếm các nguồn cung cấp khí bổ sung…
Thảo luận
Xin cập nhật kết quả kinh doanh 6 tháng?
Giám đốc Ngô Đức Nhân: Ước tính 6 tháng đầu năm, sản lượng điện đạt gần 2,44 tỷ kWh, thực hiện 54% kế hoạch năm. Lợi nhuân trước thuế là 421 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 400 tỷ đồng, thực hiện 65% kế hoạch năm.
Chi phí về khí chiếm 70% giá thành, do đó giá khí giảm xuống đã giúp giảm giá thành và ghi nhận kết quả tích cực. Dự kiến trong quý III là mùa mưa bão khiến giá thị trường thấp và đến tháng 9 sẽ mất 30 ngày để trung tu nên thực hiện 6 tháng đầu năm cao.
Video đang HOT
6 tháng đầu năm công ty cũng đã trả thêm được 551 tỷ đồng nợ nước ngoài và đủ nguồn tiền để thực hiện chi trả cổ tức cho năm 2019.
Nguồn cung cấp và số thiếu hụt khí hiện là bao nhiêu? Khả năng đáp ứng đến cuối năm là bao nhiêu?
Giám đốc Ngô Đức Nhân: Mức huy động các nhà máy miền Nam hiện khoảng 22,5 triệu/ngày trong khi khả năng cung cấp vào bờ chỉ khoảng 16,5-18 triệu m3/ngày. Riêng NT2 được bao tiệu với mức cao nhất 3,1 triệu m3/ngày và thấp nhất 2,2 triệu m3/ngày. Công ty đã ký hợp đồng bao tiêu 25 năm và PV Gas cam kết cung cấp 2,79 triệu m3/ngày cho công ty. Cục điện lực giao sản lượng Qc là 3.788 tỷ kWh.
Sắp tới mỏ Sao Vàng Đại Nguyệt có thể cung cấp thêm 4 triệu m3/ngày, lượng bổ sung này giúp cả hệ thống ổn định. NT2 đã ký phụ lục hợp đồng với Sao Vàng Đại Nguyệt để đảm bảo có đủ sản lượng.
Phải thu với EVN đang xử lý ra sao? Khi hoàn tất trả nợ thì có được chia phần lợi nhuận chênh lệch tỷ giá?
Kế toán trưởng Lê Việt An: Công ty đã thu hồi công nợ. Với phần lợi nhuận chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện gần 603 tỷ đồng. Khi công ty trả hết nợ nước ngoài thì sẽ cân nhắc chưa thực hiện chia cổ tức với khoản lợi nhuận phi tiền tệ này. Dự kiến tháng 6/2021 sẽ hoàn tất trả nợ, chúng tôi sẽ có phương án xử lý khoản mục này.
Khi trả hết nợ, công ty có thực hiện vay mới không?
Giám đốc Ngô Đức Nhân: Khi trả nợ xong chúng tôi sẽ có thêm tiền và tăng lợi nhuận. Công ty đang hoạt động ổn định nhưng cần phải phát triển; do đó khi trả hết nợ và hết khấu hao chúng tôi sẽ xây dựng phương án để nâng cao hiệu suất hoạt động và các kế hoạch mở rộng công suất nếu có.
Việc đầu tư nào phụ thuộc vào chiến lược và hiệu suất. Việc đầu tư mở rộng thì đã có phương án nhưng xây dựng nhà máy là chiến lược đầu tư lớn và phải được quy hoạch điện quốc giá. Ngoài mở rộng công suất, công ty cũng đầu tư tăng hiệu suất nhà máy hiện tại.
Nhà nước khuyến khích năng lượng mặt trời ảnh hưởng đến NT2?
Giám đốc Ngô Đức Nhân: Năng lượng tái tạo là năng lượng tương lai, còn trong tình hình hiện tại thì với mức tăng 8-10% và một số dự án lớn chậm tiến độ thì tình trạng thiếu điện sẽ xảy ra thời gian tới.
Dòng vốn FDI lớn thì có xem là cơ hội không?
Chủ tịch HĐQT Uông Ngọc Hải: Dòng vốn FDI nếu vào khu vực hoạt động của NT2 thì đây là cơ hôi lớn. Hiện nhà máy có công suất 750MW và nằm ở vùng phát triển tại phía Nam. Các khu công nghiệp xung quanh dự án như Ông Kèo và Nhơn trạch đã lấp đầy, do đó NT2 có thể chào trực tiếp tới các nhà đầu tư FDI này để tối ưu công suất.
NT2 cũng đang chuẩn bị các cơ sở hạ tầng, đội ngũ và nghiên cứu tham gia thị trường bán buôn cạnh tranh. Khi tham gia thị trường này, NT2 có lợi thế lớn để bán cho các bên mua lớn khác ngoài EVN, thậm chí bán trực tiếp cho các khu công nghiệp. Lợi thế rất lớn của NT2 là sẽ trả hết nợ vào năm 2021 và hết khấu hao vào năm 2025.
BVSC: GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng 3,8 - 4,2%, lãi suất có thể giảm thêm
Trong kịch bản cơ sở với việc dịch bệnh được kiểm soát vào giữa Quý 2/2/20,, BVSC dự báo tăng trưởng GDP cho cả năm 2020 ở mức 3,8-4,2%.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Khó khăn còn ở phía trước
Trích dẫn số liệu của Tổng cục thống kê, báo cáo chiến lược vĩ mô và thị trường Quý 1/2020 của CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho biết, tăng trưởng GDP Quý 1/2020 của Việt Nam ước tính chỉ tăng 3,82% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây.
BVSC lưu ý con số tăng trưởng GDP mới chỉ là ước tính do thời điểm thu thập số liệu chưa hết tháng 3. Mặt khác, đây là mức so sánh so với cùng kỳ (YoY) chứ không phải so sánh theo quý (QoQ) nên chưa thể hiện rõ mức sụt giảm GDP của Việt Nam do dịch bệnh. Các biện pháp "giãn cách xã hội" quyết liệt của Chính phủ trong suốt tháng 4/2020 sẽ vẫn khiến tăng trưởng GDP Quý 2/2020 của Việt Nam chịu ảnh hưởng tiêu cực.
Trong kịch bản cơ sở, BVSC cho rằng Việt Nam và thế giới có thể kiểm soát được dịch bệnh Covid-19 kể từ giữa quý II/2020 trở đi. Trong đó, BVSC thiên về khả năng Việt Nam sẽ khống chế dịch thành công (khoảng cuối tháng 4) trước Mỹ và châu Âu (cuối tháng 5, đầu tháng 6).
Đối với các gói hỗ trợ cho doanh nghiệp và an sinh xã hội, về cơ bản, chính sách hỗ trợ của Chính phủ các nước là sự phối hợp đồng thời của cả hai chính sách tài khóa và tiền tệ.
Về chính sách tiền tệ, giải pháp chủ yếu là NHTW hạ lãi suất điều hành với biên độ lớn, một số nước có thêm các chương trình mua tài sản (nới lỏng định lượng) quy mô lớn. Giải pháp này nhằm cung cấp thanh khoản trực tiếp, tránh sự sụp đổ của hệ thống tài chính khi có cú sốc bất ngờ.
Tiếp đến là sự vào cuộc của chính sách tài khóa với việc chi tiêu của Chính phủ nhằm hỗ trợ trực tiếp cho tổng cầu, đặc biệt là chi tiêu của các hộ gia đình khi thu nhập của người lao động bị sụt giảm đột ngột do mất việc làm.
Ngoài hỗ trợ hộ gia đình thì Chính phủ các nước cũng có các chương trình bảo lãnh, giãn, giảm thuế phí, các khoản bảo hiểm xã hội phải nộp cho doanh nghiệp. Đây là giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp tồn tại được qua giai đoạn khó khăn hiện tại.
Trong khi đó, tại Việt Nam, về chính sách tài khóa, ngoài thúc đẩy đầu tư công, Chính phủ cũng đã kịp thời có các gói hỗ trợ cho nền kinh tế.
Mặc dù xét về quy mô so với GDP, các gói hỗ trợ tài khóa của Chính phủ (chỉ khoảng 4,3% GDP) còn khá khiêm tốn so với các nước khác do nguồn lực hạn chế hơn nhưng về cơ bản, các giải pháp này cũng có chung mục đích cố gắng hỗ trợ, giúp doanh nghiệp có thêm khả năng tồn tại cũng như trợ giúp trực tiếp cho những người yếu thế trong xã hội, qua đó phần nào "giảm sốc" cho tổng cầu.
Để thúc đẩy đầu tư công và thực hiện các gói tài khóa trên, BVSC cho rằng ngân sách sẽ chuyển sang trạng thái thâm hụt trong năm 2020 (thay vì thặng dư 97 nghìn tỷ đồng như năm 2019).
Để bù đắp bội chi và thúc đẩy đầu tư, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam năm 2020 nhiều khả năng sẽ tăng trở lại lên quanh mức 60% (vẫn dưới trần nợ công 65% nhưng cao hơn mức quanh 56% của năm 2019).
BVSC cũng lưu ý mức GDP tính toán là mức GDP cũ, chưa điều chỉnh theo đề án tính lại GDP của Tổng cục Thống kê.
Dự báo một số chỉ tiêu vĩ mô của BVSC (Nguồn: BVSC)
Lãi suất cho vay có thể giảm thêm 0,5 - 1%
Theo BVSC, cũng giống như NHTW các nước, chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam nhằm đối phó với dịch bệnh Covid-19 cũng là cắt giảm các loại lãi suất điều hành nhằm định hướng giảm lãi suất cho vay các doanh nghiệp.
Theo Quyết định số 419/QĐ-NHNN ngày 16/03 của NHNN, các loại lãi suất điều hành như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất chào mua giấy tờ có giá qua kênh OMO, trần lãi suất tiền gửi ngắn hạn (dưới 6 tháng), trần lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên đều được cắt giảm 0,25-1% (tùy từng loại lãi suất).
Ngoài cắt giảm lãi suất điều hành, NHNN còn ban hành Thông tư 01 hướng dẫn về về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 với tổng giá trị 250 nghìn tỷ đồng.
BVSC cho rằng, về thực chất, thông tư này chủ yếu có ý nghĩa tạo hành lang pháp lý để các NHTM thực hiện cơ cấu lại nợ, giảm phí lãi cho các doanh nghiệp chứ NHNN không trực tiếp tác động hỗ trợ thị trường.
Giải pháp này khác với gói hỗ trợ lãi suất năm 2008 nên sẽ giúp kiểm soát rủi ro vĩ mô về mặt dài hạn. Tuy vậy, trong ngắn hạn, quyền quyết định hỗ trợ hoàn toàn thuộc về các ngân hàng nên có thể mức hỗ trợ sẽ không đồng đều và tùy thuộc vào sự đánh giá của từng ngân hàng riêng lẻ.
Ngoài giảm lãi suất huy động đầu vào thì yếu tố giúp các ngân hàng giảm mạnh lãi suất cho vay đầu ra là cắt giảm chi phí hoạt động (lương thưởng nhân viên) và chấp nhận một mức lợi nhuận thấp hơn so với các năm gần đây.
Trong kịch bản cơ sở, BVSC cho rằng các động thái hỗ trợ từ chính sách tiền tệ như trên là tạm đủ.
Tuy vậy, trong kịch bản tiêu cực khi dịch bệnh tiếp tục có diễn biến phức tạp trong nửa cuối năm 2020, theo đó tình trạng của các doanh nghiệp yếu hơn so với dự tính, vẫn có khả năng NHNN sẽ tiếp tục cắt giảm thêm lãi suất điều hành 0,25-0,5%.
Cùng với lạm phát hạ nhiệt dần về cuối năm, lãi suất huy động có thể cũng sẽ giảm thêm 0,3-0,5%.
Theo đó, các NHTM có thể sẽ thu xếp thêm các gói tín dụng giảm lãi suất cho vay thêm 0,5-1% cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giảm lãi, phí cho các doanh nghiệp có thể cũng sẽ được kéo dài thêm./.
Nguyễn Ánh
Ngành dược tăng trưởng không như kỳ vọng trong quý I/2020 Ngành dược được đánh giá là ngành có sẽ phát triển mạnh trong đại dịch COVID - 19, tuy nhiên doanh thu và cổ phiếu lại kém hơn kỳ vọng. Trị giá cổ phiếu tăng chậm Trong báo cáo nghiên cứu của các công ty chứng khoán, dược phẩm là ngành được đánh giá cao giữa đại dịch COVID-19. Vì vậy, cổ phiếu...