Hôn nhân là gì và dựa vào đâu?
Chỗ dựa của hôn nhân là gì? Nếu cho thảo luận, đảm bảo đám đông sẽ loạn cả lên, chủ tọa khó lòng mà tìm ra công thức “tổng kết” được.
Giống như câu hỏi ai cũng muốn mang tới hỏi vị thiền sư: “Xin ông cho biết một công thức ngắn gọn như ra toa thuốc để về áp dụng được không?”. Người thực hành thiền lâu năm sẽ biết ngay quý vị hỏi vậy là chưa hiểu kỹ về thiền, tưởng rằng chỉ có vài động tác theo công thức hít vào thở ra…
Chỗ dựa của hôn nhân đòi hỏi nhiều lắm, cũng muôn màu muôn vẻ và phụ thuộc vào người trong cuộc “bốc thuốc” nào làm đầu vị của “đơn thuốc” lựa chọn riêng cho gia đình mình. Người Ấn Độ cho rằng có ba nguồn làm say mê con người tạo nên tình yêu: sự say mê trí tuệ, thể xác và sự tôn trọng. Tình yêu đúng nghĩa có ba thứ say mê đó. Tiếc rằng trong thực tế, có người chỉ mê thể xác mà không có hai thứ kia, hai thứ làm nên tình bạn. Tình yêu có tình bạn thường đẹp và ngăn giữ con người biết cư xử trong bao tình huống gay cấn của đời người. Vợ chồng tương kính như tân, coi trọng nhau như khách là vì thế.
Các chuyên gia tâm lý lại khuyên đừng nên cho rằng phải hoàn toàn hợp nhau mới là hạnh phúc. Bởi thiếu gì ông chồng bà vợ càng sống lâu với nhau càng phát hiện ra họ chẳng hợp nhau chút nào. Nhiều người tự hỏi: “ Sao hồi đó mình không nhìn thấy nhỉ?”. Lúc trẻ thấy chàng trai nghiêm trang ít lời, chăm chỉ, con nhà nghèo, cô nghĩ rằng: chắc chắn phải là người nhường cơm sẻ áo, chịu cực khổ, giàu tình thương. Vậy mà nay lại thấy sao mà “không bao giờ có từ để dành trong từ điển của anh ta”. Cái gì ngon nhất xơi trước, mặc kệ thiên hạ.
Bà vợ chọn toàn thứ không ngon, thứ chồng con chê để ăn khỏi phí, và để dành nhường cho chồng con. Lâu dần cả đời thành “tục lệ gia đình”: ông chồng thản nhiên xơi thứ mình thích, khoái là đi chơi, buồn ngủ là lăn ra ngủ, chẳng bao giờ nhìn người xung quanh, chẳng bao giờ phải nhường nhịn ai. Lạ thật, bà vợ tự hỏi: dấu vết nhà nghèo bay đi đâu mất, cứ sống như một kẻ ích kỷ, mặc cho người khác bị ức chế, buồn lo. Dần dần bà vợ thấy bất mãn quá, đâm ra hay để ý vặt. Bà vợ thấy mình có hợp với ông chồng đâu mà sao sống kẽo kẹt với nhau từng ấy năm nhỉ? Các chuyên gia tâm lý lại dạy rằng: hợp nhau còn do sự khoan dung, và điều này lâu bền hơn là chỉ dựa vào tình cảm. Có hai loại “tiêu chuẩn” để gia đình hạnh phúc, đó là loại tất yếu phải có và loại kia là tổng hợp các tiêu chuẩn khác. Tất yếu phải có là trung thực, biết thương yêu và nuôi dạy con cái,… Loại sau là hòa hợp tình dục, tôn trọng, độ lượng… Những tiêu chuẩn này làm cho gia đình có thể duy trì ngay cả khi tình yêu say đắm đã qua đi. Trong nhiều cuộc điều tra, người ta thấy rất nhiều đôi lấy nhau vì tình yêu chỉ vài năm sau đã không còn yêu nhau nữa. Hoặc có những đôi gắn bó không phải do ham thích mà là vì thói quen, vì con cái. Và nhiều kết quả cho ta đi đến một nhìn nhận là chỗ dựa chính của đa số cuộc hôn nhân “có thâm niên” đã không còn là tình yêu nữa. Nghe kết luận này, nhiều người buồn và cũng nhiều người vui.
Người buồn thì tiếc thời đắm say oanh liệt nay còn đâu. Chỉ còn nhìn thấy nhau trong “áng văn xuôi tầm thường” chứ không còn là “bản anh hùng ca vĩ đại” thuở nào. Vì thế nên âu yếm ôm hôn lại ngượng, ngủ chung giường thấy vướng víu bức bối, nhìn những kẻ dại khờ “đang đi lừa” tặng hoa sinh nhật, làm thơ tình tặng vợ hay người yêu nhân ngày tình yêu là đua đòi, bắt chước phương Tây.
Người vui thì nói: “May quá. Thì ra cái nuôi sống gia đình, con cái không phải thứ tình si mong manh hơi chút là đòi biến mất. Không có nó, “vẫn chạy tốt”. Nhờ vào cái gì vậy? Lòng thương, sự tử tế, khoan dung đã chiến thắng. Thế nên ngay cả với nhiều cặp đã ly hôn vẫn có thể tốt với nhau sau khi nỗi giận hờn bức xúc lắng xuống. Người ta vẫn nhìn họ như “người chồng cũ”, “người vợ cũ”. Cho dù tỷ lệ ly dị ngày càng cao, nhiều người đã không kết hôn, nhưng nhìn chung nhân loại vẫn lấy vợ lấy chồng, nghĩa là họ vẫn hy vọng vào hạnh phúc. Vì thế, các chuyên gia nói rằng số phận của hôn nhân không phụ thuộc quá nhiều vào tình cảm lúc yêu đương, mà vào thuộc tính tâm hồn họ. Có tử tế nhân ái không, có ích kỷ, lãnh đạm hay không… điều đó sẽ quyết định hai người hòa hợp mức nào. Người ngăn nắp ở với người bừa bộn đã khổ lắm rồi, nói gì đến người trung thực phải sống với kẻ dối trá, người nhân ái sống với người độc ác, vô tình, chẳng biết trách nhiệm là gì. Nói cách khác, chữ hợp nhau, chỗ dựa của hôn nhân có một ý nghĩa rộng lớn…
Theo STT
Mầm non lao đao thuở "xã hội hóa"
Mười năm qua là một giai đoạn đầy biến cố đối với bậc học mầm non. Từ một bậc học bị đẩy ra "xã hội hóa" mạnh mẽ nhất, mầm non đã được Nhà nước gánh trách nhiệm trở lại.
Video đang HOT
Tuy nhiên, những hệ lụy hằn khắc vào đời sống tinh thần của xã hội do thiếu trường mầm non công một thuở không dễ gì xóa bỏ.
Phụ huynh xếp hàng chờ lấy đơn xin học cho con mùa tuyển sinh năm học 2012-2013 ở Trường mầm non Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội. (Ảnh: Nguyễn Thanh)
Trong một buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận hồi đầu năm nay, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã nhắc đến nghị quyết 05/2005/NQ-CP như một điển hình cho mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa một số chủ trương chính sách với thực tiễn khiến lãnh đạo chính quyền các địa phương phải đau đầu tính toán.
Theo ông Thảo, trong những năm gần đây bậc học mầm non của Hà Nội đã phát triển ngược hoàn toàn so với yêu cầu của trung ương. Nếu như nghị quyết 05 đặt ra chỉ tiêu đến năm 2010 số học sinh nhà trẻ học ở các cơ sở mầm non ngoài công lập đạt tỉ lệ 80%, trẻ mẫu giáo là 70% thì hiện nay 85% trẻ mầm non nói chung của Hà Nội lại được học trong các trường công lập. "Nhưng Hà Nội vẫn bị phê bình" - ông Thảo nói.
Thật ra cũng chẳng có cấp trên nào thực tâm muốn phê bình Hà Nội đã không thực hiện nổi nghị quyết. Thậm chí, như một cán bộ quản lý giáo dục cấp sở nói, trong các hội nghị về giáo dục mầm non người ta còn "lờ" đi nghị quyết 05. Có chăng, vào mỗi kỳ tuyển sinh, trên mặt báo đầy rẫy các thông tin kiểu như "trắng đêm xếp hàng" mô tả cảnh trần ai phụ huynh xin cho con vào trường mầm non...
Hà Nội: Gồng mình tìm lối khác
Từ năm 2007 đến nay là giai đoạn ngành mầm non thủ đô chịu áp lực đặc biệt căng thẳng mỗi khi đến mùa tuyển sinh. Cao trào là năm 2011 khi hàng loạt báo mạng và báo giấy cùng đăng những phóng sự ảnh trắng đêm xếp hàng xin học của người dân ở nhiều trường mầm non công lập (những năm trước chỉ mới lác đác một vài báo phản ánh). Nhiều trường khác dù không có cảnh xếp hàng trắng đêm nhưng đường dây nóng của các cơ quan báo chí nóng rực lên bởi những lời kêu than của phụ huynh khi không biết gửi con ở đâu!
Trường công thì không có chỗ. Trường tư quá đắt đỏ. Các nhóm trẻ gia đình cũng chẳng rẻ hơn được bao nhiêu, lại không yên tâm về chất lượng... Kết thúc mùa tuyển sinh năm 2011, Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội đã phải tổ chức chuyên đề về tuyển sinh mầm non trong một phiên họp báo định kỳ. Tại đây bà Nguyễn Thị Lan Hương, lúc đó là trưởng phòng giáo dục mầm non Sở GD-ĐT Hà Nội, đã "nã pháo" vào nghị quyết 05.
Giờ đây, vừa mới nghỉ hưu, bà Lan Hương vẫn còn ngùn ngụt xúc động khi nói về giai đoạn Hà Nội quyết tâm gồng mình rẽ lối khác khi đối mặt với thực tế nhu cầu nóng bỏng "được học mầm non công lập" của con em người dân thủ đô. Trước khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội có 150 trường mầm non bán công nông thôn phát triển rất èo uột với điều kiện cơ sở vật chất tạm bợ cũng như hệ thống giáo viên thiếu được đào tạo. "Nghị quyết 05 yêu cầu thúc đẩy xã hội hóa giáo dục mầm non, Luật giáo dục 2005 không cho phép tồn tại loại hình trường bán công.
150 trường bán công nông thôn đứng trước nguy cơ phải chuyển sang dân lập hoặc tư thục và nếu vậy xem như ngành giáo dục mầm non Hà Nội không thể ngóc đầu lên nổi, số trẻ huy động ra lớp dẫu có tăng nhưng chất lượng sẽ không đảm bảo vì người dân làm sao có tiền trả học phí cho những cơ sở tư thục tốt! Hà Nội phải "lách" chủ trương xã hội hóa bằng cách xin chuyển các trường mầm non bán công sang công lập có tự chủ tài chính. Mỗi khi có cơ hội được làm việc với bộ trưởng Bộ GD-ĐT khi đó là ông Nguyễn Thiện Nhân, ngành GD-ĐT Hà Nội lại đặt vấn đề này ra" - bà Lan Hương chia sẻ.
Hà Nội đã chuyển 150 trường mầm non bán công nông thôn sang công lập vào đầu năm 2008. Tháng 8/2008, do mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội có thêm 357 trường mầm non bán công nông thôn và số trường này cũng được chuyển sang loại hình công lập vào tháng 4/2009. Trước đó, từ năm 2007, trong làn sóng chủ trương xã hội hóa bổ vây tứ phía, ngành GD-ĐT Hà Nội vẫn kịp thuyết phục được chính quyền TP đầu tư thường xuyên cho các trường mầm non bán công với định mức 2 triệu đồng/học sinh/năm.
TPHCM: Phải xây thêm nhiều trường công lập!
Cùng với Hà Nội, TP.HCM cũng đã sớm giật mình trước tương lai ngành giáo dục mầm non TP khi nỗi lo chỗ học bị đẩy hết sang cho dân khi tiến hành mạnh mẽ chủ trương "xã hội hóa".
Bà Nguyễn Thị Kim Thanh, nguyên trưởng phòng giáo dục mầm non Sở GD-ĐT TP.HCM, nhớ lại: "Những năm 2007-2008 là thời gian xảy ra một loạt vụ bạo hành trẻ ở các nhóm trẻ tư nhân, điển hình là vụ bà Quảng Thị Kim Hoa ở TP Biên Hòa, Đồng Nai (về sau bị kết án tù). Đó cũng là những năm hệ thống trường tư phát triển khá mạnh mẽ, nhưng chính từ đó mà chúng tôi nhận ra một số vấn đề.
Trường tư tốt thì học phí cao, ít ra cũng mức 2-3 triệu đồng/tháng/em trở lên. Dân mình phần đông chưa đủ khá giả để cho con học ở những trường tư đó. Trường công thì không đủ trong khi nhu cầu gửi con của người dân rất bức xúc. Vậy là đẻ ra một loạt nhóm trẻ gia đình hoặc trường tư thu giá rẻ ở mức mà dân nghèo có thể chịu được. Nhưng những nhóm, trường đó lại có vấn đề về chất lượng, tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ cho trẻ".
Trước thực trạng trẻ em bị ngược đãi trong các nhóm trẻ gia đình, đầu năm 2008, lãnh đạo UBND TP.HCM đã triệu tập cuộc họp bàn về giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ mầm non. Vấn đề xây thêm trường mầm non công cho TP đã được đặt ra. Một đại diện Hội đồng nhân dân TP.HCM cho rằng TP không thiếu tiền đầu tư xây trường cho trẻ nhưng vướng là nghị quyết 05 về chủ trương xã hội hóa giáo dục và quyết định 161 (ban hành tháng 11/2002) không cho phép tiếp tục xây thêm trường mầm non công lập ở vùng kinh tế - xã hội không thuộc diện đặc biệt khó khăn.
Trong cuộc họp này, bà Nguyễn Thị Thu Hà, lúc đó là phó chủ tịch UBND TP.HCM, vẫn tuyên bố: "TP.HCM phải xây thêm nhiều trường mầm non công lập!". Theo bà Hà, các quận huyện cứ mạnh dạn làm, nếu vướng chỗ nào cứ báo cáo, TP sẽ đưa ra thường trực UBND TP để chủ tịch quyết định, vì "nếu không làm là có tội với các cháu".
"Lúc đầu ngành GD-ĐT TP phải thuyết phục các cấp lãnh đạo khi đi ngược lại với chủ trương trung ương. Rất may TP.HCM là một TP năng động. Phó chủ tịch phụ trách văn xã của TP hồi đó đều là phụ nữ, là những người đã từng nuôi con nhỏ như chị Phương Thảo, chị Thu Hà... nên họ rất thông cảm với các phụ huynh. Vả lại, TP.HCM vốn dĩ là địa phương có phong trào xây trường mầm non từ ngay sau giải phóng.
Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi còn là chủ tịch UBND TP.HCM đã có câu nói nổi tiếng: "Dành những gì tốt nhất cho trẻ nhỏ". Nhờ thế mà ngành mầm non chúng tôi được sở hữu những trường học được xây, cải tạo từ những biệt thự mặt tiền rất đẹp mà Nhà nước trưng dụng. Tôi nghĩ là TP này chưa bao giờ tiếc tiền xây trường cho trẻ" - bà Kim Thanh tâm sự.
Các em học sinh Trường mầm non Đồng Xanh (cơ sở 2), xã Long Thới, huyện Nhà Bè, TP.HCM. (Ảnh: Minh Đức)
"Cái chết" của một chủ trương
Sau khi nghị quyết 05 ra đời, ngay trong không khí phấn chấn với chủ trương xã hội hóa này với nhiều bài viết ca ngợi nơi này nơi kia chuyển đổi trường bán công sang tư thục/dân lập ra sao, nhiều nhà chuyên môn, nhiều cán bộ quản lý cũng đã sớm nhìn ra những bất cập của nghị quyết này. Trên báo Sài Gòn Giải Phóng ra ngày 5/7/2006, tác giả Ngô Đạt đã đề nghị Chính phủ sớm điều chỉnh chỉ tiêu với bậc học mầm non.
Theo ông Ngô Đạt, trong hướng dẫn triển khai nghị quyết 05, việc Bộ GD-ĐT chỉ đạo "không thành lập mới các cơ sở giáo dục mầm non công lập ở thành phố, thị xã, vùng kinh tế phát triển" là nguyên nhân vì sao mặt bằng xây dựng các trường mẫu giáo bị đóng băng. Ông Đạt đề xuất trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non, Nhà nước phải nhận khó về mình, đóng vai trò chủ đạo, điều chỉnh chỉ tiêu định hướng nghị quyết 05 để nâng tỉ lệ trẻ em tuổi mầm non được nuôi dạy trong các cơ sở giáo dục công lập ít nhất phải đạt 40-50% và có xu hướng tăng dần để đến năm 2020, đa số trẻ em dưới 6 tuổi được nuôi dạy miễn phí trong các trường mầm non công lập.
"Phong trào phản biện" nghị quyết 05 từ Hà Nội, TP.HCM về sau lan dần khắp cả nước bằng một thực tế là chẳng địa phương nào đạt nổi chỉ tiêu 70-80% trẻ mầm non, mẫu giáo được học trong các cơ sở ngoài công lập. Thậm chí hầu như việc chuyển đổi các trường mầm non bán công sang dân lập/tư thục không nhúc nhích khiến vào tháng 5/2009, Bộ GD-ĐT phải ban hành thông tư 11 cho phép (và hướng dẫn) chuyển đổi các cơ sở mầm non bán công sang công lập.
Việc ban hành thông tư này như động thái thông đường giúp hàng ngàn trường bán công trong cả nước chuyển sang công lập. Nhưng động thái chính thức nhận trách nhiệm chăm lo cho thế hệ mầm non đất nước của Chính phủ chính là ở việc ban hành quyết định phê duyệt đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn 2010-2015, ký ngày 9/2/2010. Theo đề án này, Chính phủ nhận nhiệm vụ đến năm 2015 sẽ đảm bảo gần 80% trẻ 5 tuổi được học trong các trường mầm non công lập, riêng các tỉnh vùng Tây Bắc, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và các vùng khó khăn là 100%.
Một kết thúc có hậu khác của "phong trào phản biện" nghị quyết 05 là việc Chính phủ ban hành quyết định 60/2011/QĐ-TTg thay thế quyết định 161 với khẳng định "ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011-2015, gồm có: ngân sách chi thường xuyên giáo dục và đào tạo, vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung, các chương trình mục tiêu quốc gia, vốn trái phiếu chính phủ, vốn ODA".
Rốt cuộc, ít nhất là các bậc cha mẹ - mà trong đó có không ít người từng mặc áo mưa đứng suốt đêm trước cổng trường mầm non để nộp đơn xin học cho con - nay cũng đã tạm yên lòng.
Theo Thư Hiên
Tuổi Trẻ Cuối Tuần
Tâm trạng sau khi sinh Sau kỳ sinh nở, đời sống tinh thần của phụ nữ thường có nhiều thay đổi và xáo trộn. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ chưa chuẩn bị tâm lý cho vấn đề này, do đó thường dễ rơi vào các sang chấn tâm lý, thậm chí là một số rối loạn tâm thần, trong đó trầm cảm sau sinh chiếm đa số. Yếu...