Học thêm quá nhiều, học sinh sẽ bị rối loạn tâm thần
Nghiên cứu trên 1.600 học sinh cấp 3 tại Việt Nam, chú trọng vào các đặc điểm của gánh nặng học thêm, mối liên quan giữa học thêm – áp lực học tập, triệu chứng trầm cảm và lo lắng, đã cảnh báo tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở học sinh.
Tại hội thảo “Sức khỏe tâm thần, bằng chứng từ các nghiên cứu ở cộng đồng người Việt Nam” tổ chức tại ĐH Y dược Huế ngày 9, 10/1 vừa qua, nhóm nghiên cứu của GS. Michael P. Dunne (Viện Nghiên cứu sức khỏe cộng đồng ĐH Y Dược Huế, Trường Y tế công cộng và Công tác xã hội, ĐH Công nghệ Queensland) và Phạm Thị Thu Ba (Vụ Công tác học sinh, sinh viên, Bộ GD-ĐT) đã trình bày tham luận “Học sinh THPT Việt Nam, học bao nhiêu là quá nhiều?” thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học, HS và phụ huynh.
“Học thêm (còn được biết là học kèm/học gia sư và học thêm tại các trung tâm) là một hình thức học tập bổ trợ phổ biến trong HS Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Hiệu quả của việc học thêm và ảnh hưởng của việc học thêm quá nhiều là vấn đề được xã hội quan tâm và cũng là vấn đề gây tranh cãi tại các quốc gia châu Á” – GS Michael P.Dunne cho biết.
Theo đó, trong 2 năm, nhóm đã phỏng vấn sâu và điều tra bằng bộ câu hỏi, nghiên cứu chú trọng vào các đặc điểm của gánh nặng học thêm, những mối liên quan giữa học thêm và áp lực học tập, triệu chứng trầm cảm và lo lắng trên 1.600 HS cấp 3 ở 3 tỉnh thành là Hà Nội, Thừa Thiên – Huế và Cần Thơ.
Kết quả đã chỉ ra, 94% HS Việt Nam trả lời có học thêm, tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ HS học thêm ở hầu hết các nước Đông Nam Á. HS ở thành thị, có cha mẹ có trình độ học vấn cao thì học thêm nhiều hơn, đặc biệt là học kèm gia sư.
Học thêm là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao thành tích học tập của HS (trong nghiên cứu đo bằng điểm trung bình môn học do HS tự báo cáo là Toán, Ngữ Văn và Ngoại ngữ). Nhưng điểm hạn chế của hiệu quả học thêm là: Điểm trung bình môn học cao hơn khi HS học thêm đến 2 giờ/ngày – nếu trên 2 giờ/ngày thì điểm sẽ không có cao hơn đáng kể.
Một kết quả rất thú vị là HS học thêm trung bình 2-3 giờ/ngày có sức khỏe tâm thần tốt nhất (có triệu chứng trầm cảm và lo lắng ít nhất). HS không học thêm hoặc học thêm nhiều hơn 3 giờ/ngày có sức khỏe tâm thần kém hơn như có nhiều triệu chứng trầm cảm, lo lắng. Tự học là cách học bổ trợ sau giờ học chính khóa hữu hiệu nhất so với đi học thêm.
HS trường THPT chuyên Quốc Học Huế có tỷ lệ đỗ ĐH, CĐ cao nhất tỉnh Thừa Thiên – Huế do có nhiều phương pháp học bổ trợ đa dạng (ngoài việc học thêm) sau giờ học chính khóa như: học nhóm, tự học, học bồi dưỡng nâng cao, sinh hoạt ngoại khóa…
Video đang HOT
“Rất nhiều HS thực hành cả 3 hình thức học tập bổ trợ sau giờ học chính khóa (tự học tại nhà, đi học thêm và học kèm gia sư). Đây là nghiên cứu đầu tiên phát hiện ra rằng với HS mà việc học bổ trợ sau giờ học chính khóa chủ yếu là đi học thêm thì không có điểm trung bình môn học cao hơn mà lại có sức khỏe tâm thần kém hơn đáng kể. Hơn nữa, HS có sức khỏe tâm thần kém nhất là những HS vừa đi học thêm và học kèm gia sư” – GS Michael P.Dunnne lưu ý nhấn mạnh.
Điểm cuối là các kết quả của cuộc nghiên cứu này cho thấy rằng: Cân bằng giữa tự học ở nhà và đi học thêm/học kèm gia sư là quan trọng. HS mà thời gian học bổ trợ sau giờ học chính khóa chủ yếu là đi học thêm (hơn 2/3 tổng thời gian học bổ trợ) có nhiều vấn đề về sức khỏe tâm thần hơn HS chủ yếu là tự học – hoặc cân bằng thời gian tự học và đi học thêm/học kèm gia sư.
Ngoài ra, một phát hiện quan trọng khác nữa là nhóm HS không hoặc học bổ trợ ít và có điểm trung bình môn học thấp thì có vấn đề về tâm lý như trầm cảm và lo lắng. Do vậy, việc tư vấn và hỗ trợ những HS này là cần thiết.
GS Michael P. Dunne cho rằng kết quả nghiên cứu có thể là thông tin tham khảo hữu hiệu cho HS cấp 3 và phụ huynh. Từ đó làm cơ sở cho câu hỏi “Phụ huynh sẽ quyết định như thế nào về việc học thêm cho con em để có hiệu quả cao nhất?”.
“Trên thực tế, nhiều phụ huynh cho con đi học thêm từ mẫu giáo. Đã có một nền công nghiệp dạy thêm ở Việt Nam. Nghiên cứu chỉ ra bằng chứng: nhóm học sinh có sức khỏe tâm thần xấu nhất là do đi học thêm quá nhiều sau giờ học; nhóm có sức khỏe tâm thần tốt nhất là cân bằng giữa việc học thêm và tự học” – GS Michael P. Dunne
Đại Dương
Mọi thông tin, ý kiến đóng góp về các vấn đề giáo dục, quý độc giả có thể gửi đến ban Giáo dục báo điện tử Dân trí theo địa chỉ email giaoduc@dantri.com.vn . Xin trân trọng cảm ơn!
Theo dantri
4 bệnh cực nguy hại do rượu gây nên
Rượu bia gây ra những căn bệnh cực nguy hại cho sức khỏe mà đôi khi bạn không thể nào ngờ tới.
Sử dụng rượu nhiều sẽ gây ra một số các bệnh lí rối loạn tâm thần.
Bệnh tim mạch
Tim cũng có cấu tạo là một loại cơ, mà các loại đồ uống có nồng độ cồn cao làm suy yếu các cơ nên đương nhiên sẽ làm suy yếu tim mạch. Tim sẽ không thể bơm máu đi một cách hiệu quả như bình thường.
Nồng độ cồn càng cao, tác động lên tim càng lớn, chúng làm hẹp các mạch máu và tăng áp lực trong máu, buộc tim phải hoạt động mạnh hơn. Ngoài ra chúng còn gây ra chứng rối loạn nhịp tim.
Viêm gan
Viêm gan do rượu là tình trạng viêm và hoại tử tế bào gan kéo dài 1 đến 2 tuần. Triệu chứng gồm: chán ăn, buồn nôn, ói, đau bụng, sốt, vàng da, thỉnh thoảng có rối loạn tâm thần. Bệnh có thể diễn tiến đến xơ gan do rượu qua nhiều năm.
Xơ gan do tế bào gan bị tổn thương thường xuyên. Gan nhiễm mỡ là giai đoạn sớm của bệnh gan do rượu, nếu bệnh nhân ngừng uống rượu ở giai đoạn này, bệnh có thể tự khỏi.
Rượu có thể gây tổn thương gan dù uống ít nếu dùng chung với thuốc có chứa acetaminophen. Viêm gan do rượu thường xảy ra ở người nghiện rượu, nhưng nó cũng xảy ra ở người thỉnh thoảng uống rượu. Viêm gan do rượu có thể gây tử vong, đặc biệt nếu bệnh nhân có tổn thương gan trước đó.
Gây ra các bênh về tâm thần
Rượu là một chất tác động tâm thần mạnh. Sử dụng rượu nhiều sẽ gây ra một số các bệnh lí rối loạn tâm thần.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rượu đóng một yếu tố lớn trong tái phát các bệnh lí tâm thần. Zenevitch năm 1974 thấy rằng có 14,3% bệnh nhân tâm thần phân liệt tái phát là do dùng rượu.
Rượu làm hoang tưởng, ảo giác, kích động vận động nặng lên ở giai đoạn cấp của bệnh, mặc dù vẫn tuân thủ điều trị bằng thuốc... nó còn làm tăng lo âu, sầu uất, trầm cảm, làm gia tăng các ý tưởng tự sát hoặc xu hướng kích động tấn công.
Ảnh hưởng đến khả năng tình dục và sức khỏe sinh sản
Đối với nam giới, nồng độ cồn trong máu từ 8 - 10g/100cc đủ làm giãn nở mạch máu, khó duy trì sự cương cứng của "cậu nhỏ". Tuy nhiên, do thùy trán trước của não bị ức chế nên nhiều người cảm thấy hưng phấn và khoái cảm hơn trong "chuyện ấy".
Ngoài ra, bia rượu còn làm ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng, khi kết hợp với trứng để thụ thai dễ dẫn đến suy yếu thế hệ.
Đối với nữ giới, nghiện rượu sẽ làm suy yếu vùng hạ đồi - tuyến yên, buồng trứng dẫn đến trứng không rụng nữa, làm bất thường phát triển nội mạc tử cung, rối loạn kinh nguyệt, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chị em, gây nguy cơ sinh non cao và là một nguyên nhân gây vô sinh.
Nếu nữ giới đang mang thai mà uống nhiều bia rượu sẽ khiến cho thai nhi phát triển không bình thường, thai nhi dễ bị tổn thương sau khi sinh.
Theo Khoevadep
Bài kiểm tra Lịch sử phong cách World Cup đạt 9,5 điểm Những sản phẩm thú vị này được học sinh lớp 7 trường quốc tế Wellspring thực hiện trong bài kiểm tra vẽ bản đồ tư duy môn Lịch sử. Để môn Lịch sử không còn khô khan, xa lạ, giáo viên trong trường đã sử dụng phương pháp vẽ sơ đồ tư duy cho học sinh lớp 7. Đây là phương pháp tuy...