Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế, cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
Như vậy, Đảng ta đã xác định rõ hai nguyên tắc nền tảng cần quán triệt trong việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là: bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp với kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ chế bảo vệ hiến pháp là một bộ phận của cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế này phải quán triệt hai nguyên tắc trên.
Mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không phải là tách biệt, “kìm hãm, đối trọng” nhau, mà là phối hợp, hỗ trợ nhau cùng thực hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động của cơ chế bảo vệ hiến pháp, do vậy, cũng phải đảm bảo cho mối quan hệ giữa các cơ quan này theo đúng cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát trong hệ thống quyền lực thống nhất. Đây là đặc trưng cơ bản của cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu so sánh với cơ chế bảo vệ hiến pháp trong nhà nước pháp quyền tư sản, vận hành theo nguyên tắc tam quyền phân lập.
Quan điểm về việc bảo đảm cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Những quy định về bảo vệ hiến pháp phải do nhân dân tham gia xây dựng, thực sự thể hiện đầy đủ, chính xác ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Trong quá trình lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đồng bào, chiến sĩ cả nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và trách nhiệm về cả nội dung và kỹ thuật lập hiến đối với hầu hết các chương, điều của Dự thảo, trong đó đa số ý kiến đề nghị duy trì, phát huy hiệu quả của cơ chế bảo vệ hiến pháp hiện hành và không cần thiết thành lập Hội đồng Hiến pháp.
Video đang HOT
Thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 cũng cho thấy, trong những năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ… trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp quy định, đã làm tốt việc giám sát thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, góp phần đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền được thực hiện trên thực tế.
Vấn đề đặt ra là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ hiến pháp hiện hành, khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực này theo hướng nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, kiểm tra của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật; kịp thời phát hiện, kiến nghị đình chỉ, hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp và không thành lập Hội đồng Hiến pháp.
Văn Minh Đức
Theo ANTD
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc không thành lập Hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước; là văn bản chính trị - pháp lý quan trọng, thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ, do đó, cơ chế bảo vệ hiến pháp cũng mang tính chính trị, pháp lý của Nhà nước và chế độ đó.
Về phương diện lý luận, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp nằm trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, được phân công chức năng bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ ý chí cao nhất của nhân dân, thực hiện quyền lực thống nhất của nhân dân.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phức tạp như trong các nhà nước tư sản, theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, mà chủ yếu tập trung vào các nhiệm vụ, quyền hạn, như: giám sát tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật, giải thích hiến pháp... Trong khi đó, ở các nhà nước tư sản, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ chế bảo vệ hiến pháp là giải quyết tranh chấp, xung đột giữa các đảng phái chính trị, cho nên việc thành lập Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp là cần thiết.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà nước là thống nhất, mối quan hệ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp không phải là mối quan hệ "kiềm chế, đối trọng" nhau như trong các nhà nước tư sản, mà là mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ nhau trong việc thực hiện quyền lực. Do vậy, khác với cơ chế bảo vệ hiến pháp ở các nhà nước tư sản, cơ chế bảo vệ hiến pháp ở Việt Nam không có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực, giữa Trung ương và địa phương; đồng thời, cơ chế bảo vệ hiến pháp của ta cũng không có nhiệm vụ thụ lý và giải quyết các khiếu kiện cá nhân liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được quy định trong Hiến pháp như Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp của các nước tư sản, mà nhiệm vụ thụ lý và giải quyết các khiếu kiện cá nhân liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được quy định trong Hiến pháp được giao cho Tòa án nhân dân.
Điểm khác biệt quan trọng nhất của cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với cơ chế bảo vệ Hiến pháp của các nước tư sản là cơ chế này được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo việc thành lập, đề ra quan điểm chỉ đạo về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Về phương diện thực tiễn, ở nước ta, cơ chế bảo vệ hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan đảm nhiệm, mà trách nhiệm cao nhất thuộc về Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Những quy định này rất chặt chẽ, cụ thể để kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và trên thực tế đã được cơ quan này thực hiện có hiệu quả, góp phần bảo vệ tính tối thượng của Hiến pháp.
Từ sự phân tích ở trên, có thể kết luận rằng về cả phương diện lý luận và thực tiễn, ở nước ta không thành lập Hội đồng Hiến pháp mà cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn và thể chế chính trị ở nước ta.
Lê Kiên Định
Theo ANTD
Tam quyền phân lập không phù hợp với thể chế chính trị ở nước ta Thời gian gần đây, lợi dụng việc góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số người đã cổ súy cho việc thực hiện cái gọi là "tam quyền phân lập", đòi tách biệt quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để "kiềm chế", "đối trọng" giữa ba quyền này theo mô hình nhà nước tư sản......