Hiệu quả từ Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở Vĩnh Long
Thực hiện Quyết định 62/2004/Q-TTg ngày 16-4-2004 của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2006-2019, tỉnh Vĩnh Long triển khai Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS-VSMTNT) đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng làm chuyển biến đời sống của người dân và môi trường nông thôn trong tỉnh.
Trạm cấp nước sạch xã Tân Quới, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: HÀ THÀNH THẶNG
Mục tiêu của Chương trình nhằm tạo cơ chế tín dụng để thực hiện Chiến lược Quốc gia về NS-VSMTNT đến năm 2020 theo Quyết định số 104/2000/Q-TTg ngày 25-8-2000 của Thủ tướng Chính phủ. Hộ dân, tổ chức được vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội để đầu tư các loại dự án cấp nước sạch và các dự án vệ sinh môi trường nông thôn bảo đảm theo tiêu chuẩn quốc gia, gồm: hố xí hoặc hố xí kèm bể biogas, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm; xử lý nước thải, rác thải khu vực làng nghề nông thôn.
UBND tỉnh Vĩnh Long đã chỉ đạo chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và các sở, ngành, các cấp có liên quan tổ chức thực hiện Chương trình.
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, từ năm 2006-2019, tỉnh đã cho 116.000 lượt hộ vay với số vốn 1.061 tỉ đồng để xây dựng 210.000 công trình NS-VSMTNT. So với trước năm 2006, toàn tỉnh chỉ có khoảng 80.000-90.000 hộ được vay và khoảng 120.000 công trình được xây dựng. Với quy trình thủ tục cho vay đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi; phương thức cho vay linh hoạt, triển khai rộng rãi đến cấp xã hộ dân nông thôn tiếp cận được nguồn vốn vay, đầu tư xây dựng công trình NS-VSMTNT.
Video đang HOT
Cùng với các nguồn vốn đầu tư từ các chương trình khác (như Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững…). Chương trình tín dụng NS-VSMTNT đạt được nhiều hiệu quả đáng kể, góp phần nâng cao tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh và nhà tiêu hợp vệ sinh, cải thiện điều kiện sống, sức khỏe và môi trường ở nhiều vùng nông thôn; đồng thời góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Về hiệu quả kinh tế, với việc vay vốn để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các mô hình cấp nước sạch như: xây bể chứa nước, lu chứa nước… đã giúp cho các hộ gia đình được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh, giảm bớt khó khăn hằng ngày khi đi lấy nước rất xa khu dân cư. Nhiều nơi ở vùng hạn hán nặng, vùng bị nhiễm phèn, vùng bị xâm ngập mặn, người dân không phải mua nước sinh hoạt với giá rất cao, đã giúp các hộ gia đình ở các khu vực này có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế. Chương trình góp phần hình thành nếp sống văn hóa, văn minh, nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường ở tất cả mọi nơi, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; xóa bỏ dần tập quán sinh hoạt lạc hậu, thiếu vệ sinh của người dân nông thôn, của đồng bào dân tộc; hạn chế sự chênh lệch về điều kiện sinh hoạt giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng nông thôn với nhau.
Với việc xây dựng được hơn 106.000 công trình vệ sinh như: nhà tiêu hoặc nhà tiêu kèm bể biogas, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và xử lý nước thải, rác khu vực nông thôn… đã góp phần làm cho môi trường nông thôn, các khu vực công cộng, khu vực làng nghề sản xuất được cải thiện đáng kể, cảnh quan và môi trường “xanh – sạch – đẹp” đang xuất hiện ở nhiều xã, nhiều ấp… óng góp của Chương trình tín dụng NS-VSMTNT có thể thấy rõ nhất qua những con số: Năm 2005 (trước khi thực hiện Quyết định số 62/2004/Q-TTg), toàn tỉnh chỉ có khoảng 10.000 hộ dân nông thôn sử dụng nước qua trạm cấp nước (đạt 5,56%) và tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh chỉ đạt 25%. Năm 2006, con số này là 24.740 hộ (đạt 20%) và tỷ lệ người dân sử dụng nước hợp vệ sinh là 38%.
ến cuối năm 2019, toàn tỉnh có 99,2% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt chuẩn là 87,9%, tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có nhà tiêu: 82,97%. Trong đó, tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh: 79,18% và tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh: 61,22%), tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có chuồng trại gia súc hợp vệ sinh đạt 65,30%; 100% số trường học mầm non, phổ thông và 100% số trạm y tế xã ở nông thôn có đủ nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh sử dụng tốt… Năm 2020, từ các nguồn vốn do tỉnh đầu tư, Vĩnh Long có thêm 9.936 hộ nông thôn sử dụng nước sạch từ các trạm cấp nước tập trung, nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chuẩn toàn tỉnh lên 92,13% (tương đương 206.823 hộ).
Năm 2021, tỉnh Vĩnh Long tiếp tục đề nghị Chính phủ cho tỉnh thực hiện Chương trình giai đoạn 2021-2030. Theo ông Nguyễn Văn Liêm, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, để Chương trình tín dụng NS-VSMTNT thực hiện tốt hơn trong giai đoạn tới, tỉnh Vĩnh Long đề xuất Chính phủ điều chỉnh tăng mức cho vay tối đa đối với mỗi loại công trình lên cao hơn mức hiện tại để đảm bảo đầu tư xây dựng các công trình NS-VSMTNT có chất lượng (cụ thể là nâng mức cho vay tín dụng từ 10 triệu đồng/công trình lên 20 triệu đồng/công trình) và mở rộng đối tượng cho vay tín dụng đối với các hộ gia đình cư trú tại các phường, thị trấn, cho vay đối với các công ty, doanh nghiệp đầu tư xây dựng, cải tạo các công trình cấp nước sạch và xử lý môi trường tập trung.
ồng thời tổ chức thực thiện các giải pháp tiếp theo, như: Tăng cường kiểm tra, giám sát hộ vay trong việc sử dụng vốn, đảm bảo đúng mục đích, đúng đối tượng nhằm phát huy hiệu quả nguồn vốn và chất lượng tín dụng của chương trình. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, ấp khóm văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng tiêu chí văn hóa đối với các xã đạt chuẩn nông thôn mới. Xây dựng thí điểm mô hình cải tạo cảnh quan sạch – xanh – đẹp tại một số xã xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu. Ngoài ra, cần tăng cường ứng dụng các công nghệ mới trong xây dựng các công trình NS-VSMTNT và nhằm giải quyết cấp nước cho những vùng gặp nhiều khó khăn như vùng bị nhiễm mặn, vùng bị hạn hán, lũ lụt.
Vĩnh Long sẽ làm gì để đạt được chiến lược đảm bảo trật tự ATGT 2021 -2030?
UBND tỉnh Vĩnh Long vừa có kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự ATGT đường bộ giai đoạn 2021 -2030.
Vĩnh Long phấn đấu đến năm 2030, không để xảy ra ùn tắc giao thông trên các tuyến QL, các tuyến giao thông chính.
Ngày 22/3, ông Mai Hoàng Minh, Chánh VP Ban ATGT tỉnh Vĩnh Long cho biết, UBND tỉnh này vừa có quyết định phê duyệt kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia bảo đảm trật tự ATGT đường bộ giai đoạn 2021 -2030 trên địa bàn tỉnh.
Theo kế hoạch, về kết cấu hạ tầng giao thông, đến năm 2030, tỉnh sẽ xóa bỏ các điểm đen, điểm tiềm ẩn TNGT trên hệ thống đường bộ; Các tuyến đường bộ xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo được xem xét xây dựng làn đường dành riêng cho mô tô, xe gắn máy, xe đạp và bảo đảm an toàn cho các đối tượng tham gia giao thông dễ bị tổn thương; Lập lại trật tự hành lang an toàn đường bộ và chống tái lấn chiếm trên tất cả các tuyến đường tỉnh, QL.
"Phấn đấu đảm bảo 100% các tuyến đường bộ xây dựng mới, nâng cấp cải tạo và đang khai thác được thẩm tra, thẩm định an toàn giao thông theo quy định; 100% các tuyến đường QL, đoạn đi qua địa bàn tỉnh được lắp đặt hệ thống camera giám sát giao thông; 100% hệ thống đường tỉnh, 50% hệ thống đường huyện được xây dựng và lắp đặt đầy đủ các công trình, trang thiết bị bảo đảm ATGT; 100% khu vực cổng trường học nằm trên các tuyến QL, tỉnh lộ, các đường trục chính đô thị được tổ chức giao thông bảo đảm an toàn, thông suốt", kế hoạch nêu rõ.
Đặc biệt, sẽ không để xảy ra ùn tắc giao thông trên các tuyến QL, các tuyến giao thông chính.
Về phương tiện giao thông, đến thời điểm trên, toàn tỉnh sẽ loại bỏ hoàn toàn loại hình xe cơ giới hết niên hạn sử dụng. Đồng thời triển khai kiểm soát phát thải khí thải định kỳ đối với mô tô, xe gắn máy có động cơ xăng tham gia giao thông.
Để triển khai thực hiện, UBND tỉnh đã đề ra 7 giải pháp, giao Sở GTVGT chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành thường xuyên rà soát, tham mưu UBND tỉnh ban hành các quy định việc ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào lĩnh vực bảo đảm trật tự ATGT đường bộ. Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển vận tải khách công cộng trên các tuyến đường chính qua các tỉnh, thành phố lân cận.
Bên cạnh đó, nâng cấp thiết bị để ứng dụng khai thác cơ sở dữ liệu thiết bị giám sát hành trình và camera giám sát trên các xe ô tô kinh doanh vận tải, đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho các cơ quan chức năng về thanh tra, tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm.
Sở chủ trì, phối hợp với UBND cấp huyện và các ngành có liên quan triển khai Kế hoạch chống lấn chiếm hành lang an toàn đường bộ trên các đường tỉnh.
UBND tỉnh cũng giao công an chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành thường xuyên rà soát, tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật trong hoạt động giám sát, tuần tra, kiểm soát về trật tự ATGT phù hợp với đặc điểm tình hình của tỉnh.
Đồng thời, thường xuyên, liên tục thực hiện chuyên đề tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm nồng độ cồn, sử dụng chất ma tuý, đặc biệt tập trung vào đối tượng là lái xe chuyên nghiệp như: lái xe tải, xe container, xe khách tuyến cố định liên tỉnh; các hành vi tổ chức đua mô tô, ô tô trái phép.
Chủ tịch Vĩnh Long đến hiện trường chỉ đạo tìm kiếm đại uý CSGT mất tích Ngày 6/1, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long Lữ Quang Ngời đến địa phận ấp Mỹ An, xã Mỹ Hoà, thị xã Bình Minh chỉ đạo việc tìm kiếm đại úy CSGT mất tích trên sông Hậu. Theo cơ quan chức năng, chiều tối 5/1, Đại úy Nguyễn Phùng Khắc (39 tuổi) lái ca nô chở Đại úy Ngô Thanh Xuyên (37 tuổi)...