Hiệp định RCEP tác động thế nào đến kinh tế?
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) ký kết ngày 15/11, sau 8 năm đàm phán là hiệp định thương mại tự do (FTA) có nhiều tác động đến kinh tế Việt Nam.
Hàng hoá Việt Nam vào các nước tham gia RCEP sẽ thuận lợi hơn nhưng cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn về chất lượng. (Ảnh: Như Ý)
Không gây cú sốc giảm thuế, không tăng nhập siêu
Trả lời báo chí sau lễ ký, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh cho hay, việc ký kết thành công RCEP đã đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và tất cả các nước tham gia đàm phán Hiệp định. Theo đó, RCEP khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, tương đương khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Theo ông Trần Tuấn Anh, với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực và mở ra những xa lộ mới cho hàng hoá Việt Nam. Đặc biệt, RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam. Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây.
” Việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của nước ta “, Bộ trưởng cho hay.
Video đang HOT
Trước câu hỏi, ” những cam kết trong RCEP có làm tăng nguy cơ nhập siêu đối với Việt Nam? “, người đứng đầu Bộ Công Thương cho hay, Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 5 nước đối tác trong RCEP theo các FTA giữa nội khối ASEAN, cụ thể là Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi là các hiệp định FTA ASEAN 1).
Quá trình tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm, còn với 5 nước đối tác trên trong vòng khoảng 15 năm qua. Vì vậy, việc thực hiện hiệp định RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam.
” Hiệp định RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác ASEAN trong một Hiệp định FTA. Ví dụ, doanh nghiệp sẽ chỉ phải sử dụng 1 quy tắc xuất xứ thay vì 5 bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường. Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực tăng nhập siêu “, Bộ trưởng nói.
Theo Bộ trưởng Công Thương, lợi ích có thể nhìn thấy là các doanh nghiệp Việt Nam (chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ) sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với khó khăn và thách thức liên quan sức ép cạnh tranh về chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng trên sản phẩm đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam.
” Hiện tại, đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, trong khi khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực còn hạn chế cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn khá khiêm tốn “, Bộ trưởng Công Thương cho hay.
Tạo không gian kết nối sản xuất trong ASEAN
Theo Bộ Công Thương, Hiệp định RCEP có tính chất khác xa so với các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia gần đây như CPTPP hay EVFTA. Thay vì hướng đến mở cửa thị trường, RCEP hướng đến vai trò trung tâm của ASEAN, tạo ra một khuôn khổ để thuận lợi hóa thương mại và tạo không gian kết nối chung sản xuất trong toàn ASEAN.
Cụ thể, cùng với các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, RCEP tạo ra khuôn khổ để đơn giản hóa thủ tục hải quan và thiết lập quy tắc xuất xứ tạo thuận lợi cho thương mại. Nhờ đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào các chuỗi giá trị mới trong khu vực và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ mở ra cơ hội mới cho các sản phẩm từ các lĩnh vực nổi bật như viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và nông nghiệp.
Cùng đó, trong lĩnh vực quy tắc xuất xứ, với những đối tác lớn trong ngành sản xuất của Việt Nam như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như điện tử, may mặc, da giày cũng sẽ có điều kiện thuận lợi để định vị và vận dụng những quy tắc xuất xứ này trên cơ sở đảm bảo được lợi ích tối đa của khu vực doanh nghiệp và các ngành sản xuất trong các chuỗi cung ứng. Các cam kết cũng giúp khai thác tốt các thị trường, từ thị trường Trung Quốc, Úc, Nhật Bản,… cho những sản phẩm của công nghiệp điện tử, dệt may, da giày…
Cam kết về thuế của Việt Nam và các nước trong RCEP
Về lộ trình tự do hóa thuế quan của các bên, Việt Nam chào cho các nước ASEAN và các nước đối tác tỷ lệ tự do hóa thuế quan không cao hơn mức cam kết trong các Hiệp định FTA ASEAN 1 hiện hành. Cụ thể chào cho ASEAN là 90,3%, cho Australia và New Zealand là 89,6%, cho Nhật Bản và Hàn Quốc là 86,7%. Với Trung Quốc, ta chào tỷ lệ tự do hóa thuế quan 85,6% (phù hợp với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định FTA ASEAN-Trung Quốc và chính sách thuế hiện hành của ta, nhằm giảm tối đa khả năng tăng nhập siêu từ thị trường này khi thực thi Hiệp định RCEP).
Các nước đối tác chào cho Việt Nam tỉ lệ tự do hóa thuế quan cao hơn ta chào cho các nước đối tác tương ứng, cụ thể Australia xóa bỏ 92%, New Zealand xóa bỏ 91,4%, Nhật Bản xóa bỏ 90,4%, Hàn Quốc xóa bỏ 90,7% và Trung Quốc xóa bỏ 90,7%.
RCEP có sự tham gia của 15 quốc gia, bao gồm 10 nước ASEAN và các đối tác ngoại khối là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia và New Zealand. Hiệp định giúp tiếp cận thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới với gần 28% thương mại toàn cầu.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện năm 2018 cho thấy, thực thi Hiệp định RCEP có thể giúp tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam tăng thêm 0,4% đến năm 2030 nếu xét lợi ích trực tiếp, có thể lên đến 1% nếu có tính đến lợi ích gián tiếp từ cải cách thể chế.
Bộ Công Thương ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ
Ngày 30/10/2020, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã ký Quyết định số 2793/QĐ-BCT ban hành kế hoạch hành động của Bộ Công Thương thực hiện Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 6/8/2020 của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Bộ Công Thương ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ. Ảnh: TTXVN.
Để triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 115/NQ-CP, Bộ Công Thương yêu cầu các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc ngành Công Thương, Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ động thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, với trọng tâm chỉ đạo điều hành.
Bộ trưởng Bộ Công Thương giao Cục Công nghiệp chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan xây dựng và triển khai hiệu quả, đồng bộ cơ chế, chính sách về phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ưu tiên phát triển, đặc biệt chú trọng chính sách tín dụng, thuế nhằm thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển. Chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế và các đơn vị chức năng nghiên cứu, xây dựng, trình đề nghị xây dựng Luật phát triển Công nghiệp chế biến, chế tạo để Chính phủ xem xét, thông qua, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét, đưa vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2022-2023 của Quốc hội.
Vụ Pháp chế của Bộ Công Thương tiếp tục phối hợp với các đơn vị chức năng rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, xác định các vướng mắc, bất cập, chồng chéo và kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung để nâng cao chất lượng, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ của ngành Công Thương.
Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường Công nghiệp, rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích nhập khẩu chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư phát triển sản xuất thiết bị, phương tiện và sản phẩm bảo vệ môi trường chưa có khả năng sản xuất trong nước. Thúc đẩy phát triển sản xuất vật liệu, chế phẩm xử lý ô nhiễm môi trường. Thúc đẩy phát triển sản xuất thiết bị, vật liệu phục vụ lĩnh vực xử lý nước cấp, phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng.
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện rà soát cơ chế, chính sách, pháp luật và điều kiện kinh doanh nhằm tháo gỡ, giảm thiểu hoặc loại bỏ các rào cản gia nhập, mở rộng thị trường tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; Đẩy mạnh khuyến khích đầu tư, xây dựng và mở rộng phát triển thị trường cho các ngành công nghiệp sản xuất chế biến, chế tạo...
Cùng với đó, Cục Phòng vệ Thương mại, tổng hợp số liệu và theo dõi tình hình nhập khẩu sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp vật liệu, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển và đưa ra hướng dẫn khuyến nghị với ngành sản xuất trong nước về việc áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp; Hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trong nước thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển ứng phó với các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại do nước ngoài tiến hành, giảm tác động tiêu cực từ các biện pháp này đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tổng Cục Quản lý thị trường, quán triệt thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 06 tháng 8 năm 2020 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ; xác định đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong giai đoạn hiện nay và phải được toàn bộ lực lượng quản lý thị trường ưu tiên thực hiện với quyết tâm cao nhất...
Mới có hơn 300 doanh nghiệp Việt vào mạng lưới sản xuất của tập đoàn đa quốc gia Trong số khoảng 1.800 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện của nước ta, mới chỉ có khoảng hơn 300 doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Việt Nam mới đó chỉ có khoảng hơn 300 doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Trong...