Hệ thống đê điều – nền tảng của công tác phòng, chống thiên tai
Từ bao đời nay, Việt Nam luôn lấy thủy lợi, đê điều là biện pháp kỹ thuật hàng đầu, là nền tảng cho canh tác nông nghiệp và phòng, chống thiên tai.
Hệ thống đê điều của Việt Nam có quy mô lớn với tổng số 9.080 km đê các loại.
Quá trình phát triển hệ thống đê điều thời kỳ phong kiến
Trải qua các triều đại phong kiến, tuy còn ở mức độ sơ khai, hệ thống đê điều và thủy lợi đã giúp nhân dân ta mở mang diện tích đất canh tác, khai hoang nhiều vùng đất rộng lớn, bảo vệ mùa màng và cuộc sống người dân… Thời kỳ này, công tác thủy lợi được quản lý bởi triều đình, sản xuất nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào nước trời.
Theo ghi chép trong Quốc sử Việt Nam, công trình thủy lợi đầu tiên được xây dựng vào thời Lê sơ – là kênh nhà Lê nối thông Ninh Bình với nam Thanh Hóa. Đến thời Lý đã xây dựng được các công trình như: đê sông Lam (Nghệ An), đê Như Nguyệt trên sông Cầu, kênh Lẫm Cảng – Ninh Bình, sông Tô Lịch – Hà Nội… Hệ thống đê, trong đó có đê biển tiếp tục được phát triển trong thời Trần và các triều đại sau đó.
Dấu ấn quan trọng nhất trong việc trị thủy, khai hoang lấn biển vào các năm 1827 – 1830, cụ Nguyễn Công Trứ khi làm Doanh Điền Sứ đã tổ chức quai đê lấn biển, di dân lập ấp, xây dựng nên 2 vùng đất mới Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình).
Những thành quả vĩ đại của công cuộc doanh điền lập ấp ở Tiền Hải đã đánh dấu một bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử trị thủy ở Việt Nam, đem lại những bài học vô giá, những kinh nghiệm về kỹ thuật đào sông, đắp đê, cải tạo đất đai, xây dựng các điểm dân cư làng xã, đặc biệt có ích cho quá trình tiếp tục quai đê lấn biển mở rộng khai hoang của nhân dân Tiền Hải, dấu mốc quan trọng trong việc chủ động kiểm soát nguồn nước, phòng, chống thiên tai do nước gây ra phục vụ sản xuất, dân sinh trong thời kỳ phong kiến.
Trong thời kỳ này, các công trình thủy lợi và hệ thống đê điều được quan tâm xây dựng để phục vụ trực tiếp cho chiến tranh xâm lược và mở mang khai thác nông nghiệp thuộc địa.
Video đang HOT
Giai đoạn từ 1945 đến nay
Giai đoạn 1945-1975, ngay sau khi giành được độc lập, Chính phủ đã quan tâm đến công tác trị thủy để khai thác nguồn nước, phòng chống tác hại của thiên tai liên quan đến nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, bảo vệ dân cư.
Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập Bộ Giao thông Công chính – cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ về Thuỷ lợi của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Công tác thủy lợi sau đó được giao cho Bộ Thủy lợi và Kiến trúc (1955), Bộ Thủy lợi (1958), Bộ Thủy lợi và Điện lực (1960), Bộ Thủy lợi (1962).
Công tác thủy lợi thời kỳ này có thể chia thành nhiều giai đoạn, với mục tiêu phát triển khác nhau: từ trọng tâm là gia cố, bảo vệ đê điều, bảo vệ và quản lý hiệu quả các hệ thống nông giang đã có, mở rộng diện tích tưới kết hợp với làm thủy lợi nhỏ những năm 1945 – 1954;
Phục hồi các công trình lớn, mở rộng các công trình vừa và nhỏ trong kế hoạch khôi phục kinh tế giai đoạn 1955 – 1957; thực hiện ba chính (giữ nước là chính, thủy lợi nhỏ là chính, nhân dân làm là chính) trong kế hoạch cải tạo, phát triển kinh tế giai đoạn 1958 – 1960;
Để phát triển mạnh mẽ công tác thủy lợi và cải tạo đất để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, giải quyết hạn hán, thanh toán chua, mặn, thu hẹp tối thiểu diện tích úng, đảm bảo chống lụt, bão, mặn; bước đầu trị thủy và khai thác sông Hồng trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961 – 1965; hoàn chỉnh thủy nông những năm 1968 – 1975.
Giai đoạn này đã ghi nhận những thành quả to lớn của Chính phủ và nhân dân ta trong công tác thủy lợi, có những quyết sách đột phá, giải pháp quan trọng phát triển thủy lợi, hệ thống đê điều để khắc phục những khó khăn ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngay trong thời gian từ năm 1945 – 1954, tại những vùng tự do đã tập trung tu bổ, bồi đắp những đoạn đê xung yếu, chủ yếu ở Bắc Bộ và vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh.
Bên cạnh việc khôi phục và xây dựng mới công trình thủy lợi, củng cố, tăng cường các tuyến đê sông, đê biển cũng được quan tâm đầu tư, đã quy hoạch lại tất cả các tuyến đê; tôn cao, áp trúc, thả kè ổn định lòng sông.
Kết quả, đê đạt mức đảm bảo cao trình chống lũ 13,30m tại Hà Nội và 6,50m tại Phả Lại, xây dựng các khu chậm lũ Tam Thanh (Vĩnh Phú), Vân Cốc (Hà Tây) đảm bảo an toàn cho Hà Nội.
Đê sông từ Thanh hóa đến Hà Tĩnh được nâng cao, củng cố, chống được lũ lớn nhất đã từng xảy ra. Cũng trong giai đoạn này, thủy điện Thác Bà trên sông Chảy đã được khởi công xây dựng năm 1964.
Đê bê tông cốt thép tả Bùi, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội với chi phí gần 40 tỷ đồng đang được gấp rút hoàn thiện để tránh nguy cơ gây mất an toàn cho các huyện Chương Mỹ, Hoài Đức, Quốc Oai và một bộ phận các quận nội đô Hà Nội.
Công tác đê điều và phòng chống lụt bão ở Miền Bắc sau năm 1975 vẫn tiếp tục được coi trọng cả về công tác quản lý và đầu tư, đã triển khai thực hiện hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống đê sông từ Hà Tĩnh trở ra, đặc biệt là hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, Sông Cả và một phần đê biển Bắc Bộ và Khu IV cũ, cải tạo đầu mối Đập Đáy để bảo đảm phân lũ sông Hồng vào sông Đáy với lưu lượng từ 4.000 lên 5.000 m 3 /s…
Đến cuối năm 2010 trở lại đây, công tác phòng tránh tác hại của nước cũng chuyển dần sang quản lý rủi ro, chủ động phòng, tránh và khắc phục thiệt hại.
Hệ thống đê điều của Việt Nam có quy mô lớn với tổng số 9.080km đê các loại (5.547km đê sông; 1.343km đê cửa sông; 1.150km đê biển), trong đó có 2.727km đê từ cấp III đến cấp đặc biệt.
Nâng kỹ năng hộ đê cho lực lượng phòng, chống thiên tai
Bảo đảm an toàn hệ thống đê điều là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
Để làm tốt nhiệm vụ này, thành phố Hà Nội luôn chú trọng công tác tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng hộ đê cho lực lượng phòng, chống thiên tai ở cơ sở...
Lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai xã Đức Hòa (huyện Sóc Sơn) thực hành kỹ năng xử lý sự cố sạt trượt mái đê tả sông Cà Lồ.
Phó Chi cục trưởng phụ trách Chi cục Phòng, chống thiên tai Hà Nội Trần Thanh Mẫn cho biết, những năm qua, thành phố Hà Nội và Bộ NN&PTNT đã dành nhiều nguồn lực đầu tư tu bổ, nâng cấp hệ thống phòng, chống lũ. Vì vậy, các tuyến đê lớn đi qua địa phận thành phố Hà Nội đã cơ bản bảo đảm cao trình chống lũ theo thiết kế. Tuy nhiên, do nhiều năm nay các tuyến sông lớn của Hà Nội chưa xảy ra lũ, một số tuyến đê chưa trải qua thử thách chống lũ nên hệ thống đê của Hà Nội tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn...
Để bảo đảm an toàn các tuyến đê, Sở NN&PTNT Hà Nội đã giao Chi cục Phòng, chống thiên tai phối hợp với các quận, huyện, thị xã kiểm tra, đánh giá hiện trạng công trình đê điều trước mùa lũ, xác định các vị trí đê trọng điểm, xung yếu để xây dựng, phê duyệt phương án bảo vệ. Các quận, huyện, thị xã đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng, vật tư, phương tiện để bảo vệ đê...
Theo Phó Trưởng phòng Quản lý phòng, chống thiên tai (Chi cục Phòng, chống thiên tai Hà Nội) Nguyễn Vinh Nguyên, để nâng cao kỹ năng xử lý các sự cố đê điều cho lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp cơ sở, từ đầu năm 2020 đến nay, Chi cục Phòng, chống thiên tai Hà Nội đã phối hợp với các huyện: Thường Tín, Mê Linh, Đông Anh, Ứng Hòa, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Hoài Đức, Thanh Oai, Chương Mỹ, Sóc Sơn và thị xã Sơn Tây tổ chức diễn tập thực địa bảo vệ 18 vị trí đê (mỗi điểm diễn tập có lực lượng của 5 xã, phường, thị trấn tham gia). Nội dung diễn tập tập trung xử lý các tình huống: Tuần tra phát hiện và xử lý mạch đùn, mạch sủi phía trong thân đê, nước tràn mặt đê, sơ tán và di dân vào khu vực an toàn để tránh bão, siêu bão... Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, lực lượng tham gia diễn tập đã xử lý nhanh, gọn và đạt yêu cầu của công tác hộ đê.
Đánh giá về cuộc diễn tập hộ đê diễn ra ngày 14-11 vừa qua trên địa bàn xã Đức Hòa, Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Sóc Sơn Nguyễn Kim Lữ cho biết, huyện đã rút ra nhiều bài học, trong đó, đặc biệt là công tác phối hợp và phân công lực lượng làm nhiệm vụ kiểm soát ẩn họa trong thân đê, xử lý giờ đầu các sự cố, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn tuyến đê. Thông qua diễn tập, chính quyền và nhân dân địa phương đánh giá đúng khả năng sẵn sàng ứng phó, xử lý các sự cố đê điều, tình huống thiên tai của các lực lượng liên quan.
Về phía cơ sở, Chủ tịch UBND xã Đức Hòa Trần Văn Hưng cho hay, qua buổi diễn tập, ý thức cảnh giác, tinh thần trách nhiệm của nhân dân đối với nhiệm vụ phòng, chống thiên tai được nâng lên; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và khả năng hiệp đồng của các ban, ngành, đoàn thể địa phương trên địa bàn được củng cố. Ông Quách Văn Hùng, người dân xã Đức Hòa cho biết, thông qua buổi diễn tập, người dân đã học được nhiều kỹ thuật phát hiện, xử lý mạch đùn, mạch sủi trong đê...
Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn thông tin, phát huy hiệu quả công tác diễn tập hộ đê, năm 2021, Sở NN&PTNT Hà Nội sẽ tham mưu, đề xuất với các cấp, các ngành tiếp tục tổ chức diễn tập công tác phòng, chống thiên tai, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng trong phòng, chống thiên tai cho các địa phương còn lại trên địa bàn thành phố.
Phòng tránh thiên tai ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống trong thời kỳ chuyển mùa Thời tiết tại TP Cần Thơ và khu vực ĐBSCL đã bước vào mùa mưa. Nhiều cơn mưa lớn bắt đầu xuất hiện, tưới mát ruộng đồng, giảm oi bức và khô hạn, xâm nhập mặn. Theo các nhà khoa học đây là thời gian chuyển mùa, từ mùa khô sang mùa mưa, các trận mưa lớn có khả năng xảy ra cần...