“Hát là chết” – chuyện thực hay hư của ngôi làng cổ?
Liệp Tuyết là một ngôi làng được coi là cổ kính của huyện Quốc Oai, TP Hà Nội. Ngoài nghề canh nông thì làng này còn nổi tiếng với những điệu hát Dô.
Bước qua “ lời nguyền”, hát Dô đã không còn nỗi ám ảnh và đã được “hồi sinh”
Nổi tiếng như vậy nhưng không mấy ai dám hát vì cứ cất lời lên sẽ có những cái chết bất đắc kỳ tử hay những chuyện xui xẻo được mang đến. Vì vậy, đã nhiều năm không ai dám hát những điệu hát này vì người ta… sợ chết. Nhưng giờ thì đã khác.
Bí hiểm một lời “hèm”
Nằm bên cạnh Đại lộ Thăng Long sáng trưng đèn cao áp, Liệp Tuyết là làng luôn giữ được vẻ đồng quê của mình. Quốc Oai nói chung và Liệp Tuyết nói riêng trong cơn sốt đất gần đây đã có nhiều thay đổi nhưng sự thay đổi chóng vánh vẫn chưa đến được với Liệp Tuyết. Vẫn những bờ tre, ruộng mạ, ao hồ lẩn khuất. Nhìn chếch về phía Tây là ngọn Sài Sơn với những điều kỳ bí.
Giờ về Liệp Tuyết, hỏi “hèm” hát Dô, ai cũng có thể kể vanh vách nhưng rất nhiều người còn sợ. Không những sợ “hèm” mà người ta còn sợ chia sẻ cả những điều đã biết của mình về những kỳ bí của những lời “hèm” đã chế ngự dân làng một thuở này. Già sợ, trẻ sợ, lớn sợ, thanh niên nam nữ sợ “hèm” là những điều có thật đã bủa vây tâm lý bao đời cho người dân nơi đây. Thậm chí, “hèm” còn được người ta “khái quát” thành thơ cho dễ thuộc để khuyên nhủ cháu con, tỷ như: “Con hát tuổi hạn hai mươi/Nếu qua độ ấy thì thôi hát hò/Bao giờ đến hội hát Dô/Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng…”.
“Hèm” hát Dô là gì mà khủng khiếp thế? Ai đã đưa ra những lời “hèm” đầy kinh hãi này? Và, tại sao “hèm” hát Dô quy định chỉ 36 năm dân làng Liệp Tuyết mới được mở hội và hát lên những điệu hát say đắm mà trời đất và các cao nhân đã ban cho mình một lần? Theo quy định này của “hèm”, một đời người, nhất là với người con gái thì cả đời chỉ được hát một lần. Nếu trái sẽ gặp những nguy biến, thăng trầm, tao đoạn trong đời người. Và, cũng theo quy định kỳ bí này thì 36 năm, Liệp Tuyết mới được mở hội. Trai gái, già cả, lớn bé sau 36 năm ấp ủ hồi hộp thì đến ngày này mới được hát và vị trí hát cũng chỉ được thực hiện tại đình Khánh Xuân, ngôi đình linh thiêng của làng. Nếu vào ngày quy định được hát mà không ra đình làng hát thì cũng sẽ bị… “Thánh vật”.
Sự ra đời của “hèm” hát Dô được dân làng kể như sau: Truyền thuyết kể, một ngày mùa xuân, Đức Thánh Tản Viên đi du ngoạn qua ven sông Tích. Khi đến xã Lạp Hạ (nay là Liệp Tuyết), thấy ruộng đất phì nhiêu nhưng dân cư lại thưa thớt, ngài bèn dừng lại. Ngài chọn thóc cho dân, dạy dân trồng trọt, cày cấy. Ngài còn gọi nam thanh nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa chồng) đến dạy hát múa. Sau đó, Đức Thánh Tản ra đi, hẹn mùa lúa chín sẽ về. Mùa đó, người dân Lạp Hạ bội thu nhưng chờ mãi không thấy ân nhân quay lại. Người dân bèn dựng đền thờ ông (đền Khánh Xuân bây giờ) và mở hội hát những bài hát ông đã truyền dạy.
Cũng từ đó, người dân biết làm ăn, thóc lúa đầy bồ. Tuy trễ hẹn với dân nhưng bất chợt 36 năm sau, Đức Thánh Tản Viên mới quay lại. Thấy dân no ấm, Ngài đã cùng dân tổ chức hát ca và hát lại những bài hát (nay gọi là bài Dô) mà mình đã dạy dân thuở nào. Để ghi nhớ vị Đức Thánh ân nhân và lần hội ngộ này, dân đã đề xuất, lấy thời gian Ngài quay lại, nghĩa là 36 năm mới tổ chức hội và tổ chức hát Dô một lần. Trước ý muốn của dân, Đức Thánh Tản Viên đã đồng ý và để dân cũng như mình không phạm húy về những điều đã giao kết nên khi đi, Ngài đã để lại một lời “hèm” rằng: Ai vi phạm sẽ bị Ngài… vật chết!
Bởi thế, theo quy ước và lời “hèm” Đức Thánh để lại này, lễ hội hát Dô ở Liệp Tuyết có định kỳ 36 năm mới tổ chức một lần. Tục lệ xưa quy định cũng rất ngặt nghèo, lễ hội kết thúc thì tất cả những đồ vật dùng hát Dô như khăn, váy, túi đeo tay đựng trầu, sách ghi chép các làn điệu hát đều phải cất vào đền. Tuyệt đối không ai được nhắc đến, được cất tiếng hát và càng không được phép mở tráp ra xem nếu chưa đúng năm. Ai phạm vào điều cấm kỵ này sẽ bị lời nguyền quở vào thân, người sẽ bị còm cõi, bệnh tật rồi đổ bệnh mà chết.
Các thiếu nữ say mê hát
Trừng phạt với “người phạm luật”?
Video đang HOT
Nỗi ám ảnh, lo sợ về lời nguyền được truyền từ đời này sang đời khác khiến cho làn điệu hát Dô có nguy cơ thất truyền. Lễ hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1926. Mặc dù là địa phương phát tích ra điệu hát Dô độc đáo nhưng lấy mốc từ những năm này trở đi, người dân nơi đây không mấy ai biết đến một làn điệu, một câu hát Dô.
Năm 1989, biết giá trị của làn điệu cổ này nên tỉnh, huyện đã có ý định đi tìm và phục hồi lại hát Dô. Quỹ For cũng cảm kích về làn điệu quý giá này nên đã tài trợ đến 60 triệu để cho dân làng phục hồi. Nhưng khi đề xuất thì ai cũng sợ hát Dô không đúng thời gian sẽ bị chết. Tiền và sự phục hồi làn điệu hát Dô thì ai cũng cần nhưng cứ nhớ lại những điều đã thấy, đã xảy ra với dân làng tuy không tin nhưng là chuyện có thật nên chẳng ai dám “động” tới.
36 năm mới được hát một lần nên những làn điệu gồm 36 bài cũng dần mai một theo thời gian. Và, vấn đề này cũng đem lại cho người ta những suy nghĩ hết sức lạ lẫm. “Hèm” có thật hay không và tại sao 36 năm mới được hát một lần? Đầu tiên người ta tìm đến với các cụ cao niên trong làng. Thuyết phục, nói đi nói lại nhiều lắm cả xã Liệp Tuyết cũng chỉ mời được ba cụ là Tạ Văn Lai, Đàm Thị Điều và Kiều Thị Nhuận nhận lời. Thực ra ban đầu, các cụ cũng không hào hứng lắm vì các cụ cũng còn rất… sợ. Nhưng với suy nghĩ mình đã đều vào tuổi “gần đất xa trời”, với quan điểm là thử xem thế nào. Nếu “hèm” là có thật và mình bị “Thánh vật” thì cũng chẳng còn tiếc gì nữa vì mình đã sống đủ rồi. Nhưng trong lần đem ra để “thí nghiệm” xem sự linh thiêng của “hèm” ra sao thì đã có chuyện không hay xảy ra với các cụ.
Đầu tiên là cụ Đàm Thị Điều. Bình thường, cụ là người rất khỏe và còn rất minh mẫn. Hàng ngày, cụ vẫn còn trông cháu và lúc bình thường, cụ vẫn ra ruộng, đi chơi với xóm làng được. Nhưng không hiểu sao, có điều trùng hợp rất khó giải thích là sau khi cụ truyền lại những điệu hát cổ xong, bỗng dưng sinh ốm đau rồi mất. Các bạn già của cụ, sau khi truyền dạy hát Dô cũng đều không suôn sẻ và cũng lần lượt rủ nhau… về trời(!?).
Riêng cụ Kiều Thị Nhuận, người được coi là siêng năng nhất và nhận lời đầu tiên và sớm nhất với sự “cộng tác” về khôi phục các bài hát Dô thì “ra đi” lại không thanh thản như cụ Lai và cụ Điều. Sau khi truyền xong, cụ Nhuận được phong Nghệ nhân rồi tự dưng lâm bệnh rất nặng. Cụ liệt giường, mọi thứ sinh hoạt đều phải người khác phục vụ. Cụ vật vã, rên rỉ và nhiều lúc toàn nói những chuyện không đâu. Sau một thời gian đau ốm và có những triệu chứng không bình thường, cuối cùng “chia tay” với cháu con, cụ Nhuận cũng đã về trời với các bạn…
Vượt qua lời nguyền
Bây giờ, hát Dô (xã Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Nội) đã được phục hồi, thậm chí đã vượt qua cả những lời nguyền để ra nước ngoài. Nhưng mấy ai biết, trước đây vì những lời nguyền (hay còn gọi là “hèm”) mà làn điệu cổ ở một miền quê này từ già đến trẻ không một ai dám cất lên.
Với quan điểm: Quà Thánh rơi ở giữa làng/Phúc tôi “nhặt” được phải năng giữ gìn/Hai con một nách, không tiền/Hát Dô tôi biết còn “hèm” thì… quên.
Bằng sự gắng sức của mọi người, nay hát Dô ở Liệp Tuyết đã không phải chờ đợi 36 năm mới được tổ chức một lần nữa. Hát Dô đã trở lại trong mỗi hội xuân và còn đi ra cả nước ngoài. Và, những điều kỳ bí do “hèm” đem lại không còn làm cho người hát Dô sợ hãi nữa mà nó còn như thêm chút “gia vị” để tạo cho hát Dô những bí ẩn, linh thiêng, càng thêm trân trọng. Không biết lời “hèm” và thực hư sự quở trách của Đức Thánh Tản Viên thế nào, nhưng nay nhiều người bảo, chắc thấy dân mong muốn được hát quá nên Ngài cũng đã rộng lòng mà chiếu lệ cho dân.
Theo báo công lý
"Bố ép 3 con nhỏ uống thuốc diệt cỏ": Bi kịch từ bạo hành gia đình
Những ngày qua, dư luận nhân dân hết sức căm phẫn trước hành vi ác độc của một người cha ở huyện Quốc Oai (Hà Nội) do mâu thuẫn vợ chồng đã ép 3 đứa con nhỏ uống thuốc diệt cỏ. Song nguyên nhân sâu xa của vụ việc đau lòng này xuất phát từ bi kịch bạo hành gia đình đã kéo dài nhiều năm nay...
Giận vợ, ép con uống thuốc diệt cỏ
Kẻ làm cha có hành vi nhẫn tâm, ác độc ấy là Kiều Văn Vĩnh (SN 1982), ở xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Sau khi ép các con uống thuốc diệt cỏ, Vĩnh cũng uống để tự vẫn. Bản thân Vĩnh hiện đang được cấp cứu tại Bệnh viện Bạch Mai, thế nhưng tội lỗi của người đàn ông này gây ra đối với 3 đứa con bé bỏng khiến mọi người vô cùng bất bình và không thể dung tha.
Sự việc xảy ra vào trưa ngày 16/8. Vĩnh chở 3 con nhỏ gồm các cháu Kiều Thị Xuân Mai (7 tuổi), Kiều Đức Anh (5 tuổi) và Kiều Thị Linh (3 tuổi) đến nhà bố mẹ vợ tại thôn 3 xã Phú Cát, huyện Quốc Oai. Ông Nguyễn Văn Thế, bố vợ của Vĩnh dọn cơm cho các cháu ăn thì Vĩnh dắt các con về. Tuy nhiên ra đến cổng thì Vĩnh gục ngã, đồng thời 3 cháu bé cũng kêu đau bụng quằn quại. Các cháu cho biết trước đó trên đường đi đã bị bố ép uống thứ nước gì đó màu xanh trong chai nhựa. Theo cháu Đức Anh thì Vĩnh đã dùng nắp chai đổ nước vào miệng từng cháu, sau đó lấy nước bò húc cho các con uống.
Phán đoán Vĩnh và các cháu bé đã bị trúng độc, gia đình đã đưa tất cả xuống Bệnh viện Bạch Mai cấp cứu. Bệnh viện xác định Vĩnh và 3 cháu nhỏ đã bị trúng độc thuốc diệt cỏ. Vĩnh và cháu Mai được điều trị tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai, đã tỉnh táo ngay sau đó. Còn 2 cháu Linh và Đức Anh được chuyển tới Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng hết sức nguy kịch.
Hai cháu Kiều Đức Anh và Kiều Thị Linh đang được điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
Chiều 17/8, có mặt tại Khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương, chúng tôi vô cùng xót xa trước cảnh hai cháu nhỏ Kiều Đức Anh, Kiều Thị Linh nằm thiêm thiếp trong phòng điều trị đặc biệt, trên người chằng chịt dây truyền. Các bác sĩ cho biết hai cháu bị ngộ độc thuốc diệt cỏ với hàm lượng cao, khi được chuyển đến bệnh viện trong tình trạng rối loạn đông máu và suy hô hấp. Mặc dù đến chiều tối, cả hai cháu đã tỉnh nhưng chưa thể nói trước điều gì bởi thành phần của thuốc diệt cỏ là loại thuốc cực độc.
Ngồi thẫn thờ ngoài sân bệnh viện, chị Nguyễn Thị Thao chưa hết bàng hoàng trước sự tàn nhẫn của người chồng đã gây ra đối với 3 đứa con. Hỏi về nguyên nhân vì sao Kiều Văn Vĩnh lại làm như vậy, chị Thao lắc đầu như người mất hồn. Nhìn thân hình gày gò, đen đúa của chị, không ai nghĩ người phụ nữ này mới chỉ 25 tuổi.
Cùng con gái túc trực ở bệnh viện, bà Nguyễn Thị Bốn, mẹ của chị Thao thở dài chua chát: "3 đứa con, lại bị chồng đánh đập suốt nên giờ nó thân tàn ma dại thế này. Tháng trước bị đánh một trận thập tử nhất sinh, nó phải về nhà lánh nạn, nào ngờ thằng Vĩnh lại trút giận vào 3 đứa trẻ như vậy...".
Bà Bốn cho biết, năm 2005, chị Thao kết hôn với Kiều Văn Vĩnh. Theo bà Bốn thì lúc đó chị Thao còn trẻ người non dạ nên nằng nặc đòi bố mẹ cho cưới vì thương hoàn cảnh Vĩnh vất vả từ nhỏ, bố mẹ lại bỏ nhau. Lo lắng cho tương lai của con, ông bà khuyên ngăn con gái phải suy nghĩ cho kỹ nhưng chị Thao nhất định không nghe. Thời gian đầu, vợ chồng Vĩnh được bố mẹ vợ cho mượn mảnh đất bên cạnh xây nhà. Vĩnh làm lái xe, bốc vác thuê, là người chăm chỉ làm việc, lại khéo nói nên được mọi người quý mến. Còn chị Thao ở nhà làm ruộng.
Thế nhưng sau khi chị Thao sinh cháu Mai được một tháng thì Vĩnh bắt đầu nảy sinh tính vũ phu, thường xuyên đánh vợ. Nhiều lần, ông bà Bốn phải can ngăn nhưng Vĩnh vẫn chứng nào tật ấy. Cách đây 2 năm, Vĩnh đưa vợ con về nhà nội ở xã Liệp Tuyết, cách nhà ngoại khoảng 5 cây số. Cuộc sống của chị Thao khốn khổ hơn khi mức độ bạo hành của Vĩnh ngày càng gia tăng.
Trong ký ức của chị Thao, chồng chị không khác nào hung thần. Đi làm về, không vừa mắt điều gì là Vĩnh lôi vợ ra đánh. Vớ được cái gì là Vĩnh dùng để đập vợ không thương tiếc, từ gậy tre đến gạch đá, chảo... Trên người chị Thao giờ còn khá nhiều vết sẹo do đòn chồng gây ra.
"Hồi cái Thao đẻ đứa thứ 3 mới được 17 ngày, không hiểu vì lý do gì đi làm về thằng Vĩnh đập đầu vợ vào tường, đánh chảy ộc máu mồm, hai hàm răng lung lay. Ông ngoại giúp đưa đón hai đứa lớn đi học, lúc về cái Thao sợ cũng không dám nói cho bố biết. Đến khi ông về rồi, nó mới gọi điện cho em gái bảo xuống đưa chị đi viện" - bà Bốn kể lại.
Ngồi cạnh mẹ, chị Thao chỉ biết rơm rớm nước mắt. Chị Thao cho biết Vĩnh thường đóng cửa đánh vợ để không ai can được. Có lần bà mẹ chồng vào can cũng bị Vĩnh đánh lại chảy máu. Hàng xóm biết tính Vĩnh vũ phu nên không ai dám can thiệp.
3 đứa con dù không bị bố đánh nhưng rất sợ Vĩnh. Chính vì thế, Vĩnh nói gì các cháu đều phải răm rắp làm theo. Bà Bốn không cầm được nước mắt kể hôm 3 đứa cháu bị bố ép uống thuốc sâu, khi về đến nhà ngoại, các cháu đau bụng nhưng sợ bố đến nỗi không dám kêu đau. Đến khi được đưa lên xe đi cấp cứu, cả 3 đứa ôm chặt lấy ông bà ngoại kêu: "Bà cứu chúng cháu với, cho chúng cháu về nhà bà ở với mẹ, cháu không ở với bố nữa đâu". Nghe các cháu kêu khóc, cầu cứu mà thắt từng khúc ruột. Điều trị lọc máu ở Bệnh viện Bạch Mai, đứa lớn nằm cạnh giường bố sợ đến nỗi hai người họ hàng phải vào ngồi ở giữa che chắn. Không nhìn thấy bố nó mới dám ngủ.
Cũng theo bà Bốn, mới hồi cuối tháng 7, chị Thao bị Kiều Văn Vĩnh đánh một trận thập tử nhất sinh, ngất ở trong nhà. Bà mẹ chồng phải gọi cho ông bà Bốn nói tìm cách đón mẹ con chị Thao về không có ngày bị Vĩnh đánh chết. "Nhiều người khuyên gia đình tôi làm đơn trình báo để pháp luật xử lý thằng Vĩnh, nhưng chúng tôi không làm thế. Chúng tôi chỉ muốn con gái được giải thoát nên bảo cái Thao làm đơn ly hôn gửi xã và về nhà ngoại lánh nạn trước rồi đón các cháu về sau. Nào ngờ chưa kịp đón thì xảy ra chuyện" - bà Bốn thở dài.
Sau khi sự việc xảy ra, lãnh đạo xã Liệp Tuyết cũng đã tới bệnh viện thăm hỏi các nạn nhân. Theo lãnh đạo xã cho biết, những lần chị Thao bị chồng đánh trước đó, do gia đình không có đơn trình báo nên xã không có căn cứ giải quyết. Còn về phía gia đình chị Thao lại cho rằng hậu quả đau lòng xảy ra có một phần trách nhiệm của chính quyền địa phương bởi gia đình đã nhiều lần lên trình báo xã việc chị Thao bị bạo hành. Gần đây nhất, sau khi đưa chị Thao về xã Phú Cát lánh nạn, gia đình lên nộp đơn ly hôn và đề nghị được giúp đỡ đón 3 cháu nhỏ về nhưng vẫn không được giải quyết (?!).
Bà Nguyễn Thị Bốn tìm những vết sẹo trên đầu con gái để "vạch tội" bạo hành của con rể; chị Nguyễn Thị Thao chỉ vết sẹo trên tay do bị chồng dùng gạch đánh.
Bạo hành ở nông thôn và sự cam chịu của những người vợ
Việc Kiều Văn Vĩnh ép 3 con nhỏ uống thuốc diệt cỏ có liên quan tới mâu thuẫn giữa hai vợ chồng hay không, đang được Cơ quan Công an tiếp tục làm rõ. Song nhìn khuôn mặt hốc hác, đôi mắt vô hồn của chị Nguyễn Thị Thao, chúng tôi thấy tội nghiệp cho chị. Cuộc sống vất vả lam lũ ruộng đồng, liên tục chửa đẻ, lại bị chồng đánh đập nên trông chị hom hem, gầy sọp. Những năm tháng dài bị đày đọa bởi người chồng vũ phu dường như đã làm nhụt ý chí phản kháng của người phụ nữ này.
Cách đây ít lâu, khi đến huyện Phúc Thọ (Hà Nội) tìm hiểu vụ án Nguyễn Phú Nguyên (19 tuổi) ở cụm 2 xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ vì bênh mẹ đã "lỡ tay" đánh chết bố là ông Nguyễn Phú Bôn (48 tuổi), chúng tôi cũng hết sức thương cảm và xót xa trước thân phận của bà Nguyễn Thị Kỳ, vợ nạn nhân, người phụ nữ 22 năm bị chồng bạo hành. Hơn 20 năm làm vợ ông Bôn, bà Kỳ không một ngày được hạnh phúc trọn vẹn.
Không kể hết nỗi khổ mà bà Kỳ đã phải chịu đựng nhưng hầu như ngày nào bà cũng bị người chồng nát rượu chửi bới, đánh đập, đuổi ra khỏi nhà. Trong ngôi nhà rách nát, tài sản đáng giá nhất là chiếc giường nhưng mẹ con bà Kỳ chưa đêm nào được ngủ ngon trên chiếc giường ấy. Lúc nào cũng nơm nớp chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đạp tung cửa chạy ra đường khi bị ông Bôn đuổi đánh.
Cũng giống như chị Nguyễn Thị Thao, có đủ phẩm chất tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ nông thôn nhưng bà Kỳ lại cam chịu trước sự bạo hành ngày càng dã man của người chồng. Không phản kháng, không dám tố cáo hành vi của chồng với cơ quan chức năng, bà Kỳ nuôi hy vọng chồng sẽ thay tính đổi nết. Nhưng trái với mong muốn của bà, bản tính vũ phu cộng với thói rượu chè đã khiến ông Bôn thành người chồng độc ác, coi vợ như vật thí nghiệm để thượng cẳng chân hạ cẳng tay.
Chứng kiến thói bạo hành của bố đối với mẹ đã khiến Nguyễn Phú Nguyên uất hận. Một buổi trưa tháng 12/2012, ngăn cản bố đánh mẹ, Nguyên đã lỡ tay đẩy ông Bôn ngã khiến ông tử vong. Chồng chết, con vào tù, đó là kết cục đau xót mà bà Kỳ phải tiếp tục gánh chịu.
Trình độ học vấn thấp, lao động chủ yếu là tay chân nên thói "thượng cẳng chân, hạ cẳng tay" là phổ biến đối với các ông chồng bạo hành kiểu nông dân. Chị Nguyễn Thị Đào, 40 tuổi, quê Nam Định, hiện là chủ một cơ sở thu mua phế liệu ở Gia Lâm cho biết, 10 năm trước, chị từng là nạn nhân của nạn bạo hành gia đình. Lấy chồng ở một vùng quê thuần nông, nơi người dân còn nặng nề bởi quan niệm "trọng nam khinh nữ" nên khi chị sinh 2 con gái, người chồng đã lấy đó làm cớ để bạo hành, đánh đập, nhiếc mắng chị suốt ngày. Anh ta bắt chị phục dịch từ sáng đến tối, không vừa ý là đánh với lý do "không biết đẻ".
Quá đau khổ, chị tìm đến cái chết. Được mọi người phát hiện cứu sống, tưởng rằng chồng chị sẽ thay đổi yêu thương chị hơn nhưng không ngờ anh ta lại đánh thêm một trận thừa sống thiếu chết và tuyên bố chị phải sống nốt quãng đời còn lại "không bằng con chó trong nhà". Không chịu đựng nổi gã chồng nông dân vũ phu, chị tìm cách bỏ trốn lên Hà Nội mang theo 2 cô con gái để bắt đầu một cuộc sống mới.
Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Quyết - Giám đốc Trung tâm Tư vấn chăm sóc sức khỏe phụ nữ (thuộc Bệnh viện Đa khoa Đức Giang, Long Biên, Hà Nội), tình trạng bạo hành phụ nữ ở nông thôn chủ yếu là dùng bạo lực. Quan hệ xảy ra bạo lực gia đình ở nông thôn rất đơn giản: sáng chửi, chiều đánh, tối vẫn ngủ với nhau bình thường.
Theo một nghiên cứu về thực trạng, nhận thức của người dân về bạo lực trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay thì phụ nữ là đối tượng chịu nặng nề nhất trong vấn đề bạo lực, trong đó, thái độ cam chịu thường là nguyên nhân dẫn đến chịu đựng bạo hành trong gia đình. Những người phụ nữ nông thôn không những không có quyền có tiếng nói quyết định trong gia đình mà họ còn có "nghĩa vụ và trách nhiệm" phải làm chồng hài lòng chồng trong việc lao động kiếm sống, chăm lo gia đình, con cái và phục vụ chồng. Nếu người phụ nữ nào may mắn, gặp được người chồng tử tế, không rượu chè, không đánh đập vợ con, coi như có phúc phận. Còn nếu không, họ sẽ phải chịu đựng suốt cuộc đời.
Bạo lực gia đình là một trong những biểu hiện bất bình đẳng giới thường xảy ra trong cuộc sống hôn nhân. Ở các vùng nông thôn, có 4 nguyên nhân chính trực tiếp dẫn đến bạo lực gia đình gồm: say rượu, do mâu thuẫn trong làm ăn hoặc mâu thuẫn trong sinh hoạt đời sống, do khó khăn về kinh tế, hay do nghi ngờ vợ hoặc chồng có quan hệ ngoại tình. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa nhất được xác định đó là nhận thức về vấn đề bình đẳng giới của người dân còn hạn chế do trình độ dân trí ở nông thôn, đặc biệt là phụ nữ còn thấp.
Chính vì vậy, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình đến tận cơ sở, đặc biệt là ở những vùng nông thôn, góp phần không nhỏ vào việc thay đổi nhận thức của phụ nữ nông thôn theo hướng tiến bộ
Theo An ninh thế giới
Bố ép 3 con nhỏ uống thuốc sâu: Hung thủ đã nhắn tin "đe" vợ từ trước Khi nghe tin 3 người con dứt ruột đẻ ra bị ép uống thuốc trừ sâu, chị Thao như chết đứng. Việc chị bị chồng bạo hành suốt một thời gian dài vẫn có thể chịu đựng nhưng xảy ra sự việc này, chị hoàn toàn suy sụp. Anh Nguyễn Văn Thanh, SN 1985, anh họ của chị Nguyễn Thị Thao bức xúc:...