Hành trình Tây du Phật quốc của “Tam Tạng” Việt Nam
Ông là người Việt Nam đầu tiên dám một mình Tây du Phật Quốc.
Không những thế, ông còn vinh dự thỉnh Xá lợi Phật về Việt Nam, điều mà trước kia chưa từng có tiền lệ. Ròng rã 2 năm 4 tháng, ông đã nếm mật nằm gai để tự mình tìm đạo tại nơi khai sinh Phật giáo. Tấm lòng của ông khiến quốc vương xứ Tây Tạng vô cùng nể phục và xúc động, đã sắc phong pháp danh cao quý bậc nhất cho vị thiền sư đến từ đất Việt.
Để tìm hiểu về cuộc đời và hành trình của thiền sư Minh Tịnh, chúng tôi đã tìm đến chùa Tây Tạng, Bình Dương – nơi Hòa thượng Minh Tịnh đã lập nên và về làm trụ trì đời thứ nhất. Tại đây, chúng tôi được Hòa thượng Thích Chơn Hạnh, trụ trì đời thứ ba chùa Tây Tạng kể lại những điều lưu truyền về vị chân tu đầu tiên thỉnh Xá lợi Phật về Việt Nam.
Vị “Tam Tạng” của Việt Nam
Đó là Thiền sư Minh Tịnh, người được mệnh danh là Tam Tạng của Việt Nam. Thiền sư Minh Tịnh tên thật là Nguyễn Tấn Tạo (còn gọi là ông Mười Tạo) sinh năm 1888, tại thôn An Thạnh, (thuộc quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một cũ, nay là Bình Dương). Sinh ra trong một gia đình trí thức tiểu tư sản, từ nhỏ cậu bé Tấn Tạo đã được giáo dục vô cùng nghiêm nhặt nên chỉ mới mười mấy tuổi đầu, ông đã nổi tiếng là người tinh thông Tây học lẫn văn hóa và truyền thống phương Đông. Năm 16 tuổi, như một cơ duyên, ông bắt đầu nghiên cứu Phật học. Thế sự nhiễu nhương, bản thân lại ngộ ra những điều giải thoát cuộc đời khỏi dục vọng, sân si, nên khi đương chức trong ngành y tế thời Pháp thuộc, Tấn Tạo vẫn quyết định từ bỏ danh lợi để xuất gia. Nhưng ông vẫn một lòng hướng đạo, và lui về tu tập với Hòa thượng Ấn Thành – chùa Sắc Tứ Thiên Tôn, được ban cho pháp danh Nhơn Phổ – Nhẫn Tế. Sở dĩ ông có thêm pháp danh Minh Tịnh là do cầu pháp học đạo với tổ Huệ Đăng và thụ giới với Hòa thượng Ngộ Định -Từ Phong.
Bút tích của Thiền sư Minh Tịnh về chuyến Tây du Phật quốc
Những năm 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo đang bùng lên mạnh mẽ ở khắp mọi miền trên đất nước. Là một người con của Phật, thiền sư cũng đau đáu không yên, ông thường tự nhủ: “Muốn chấn hưng Phật pháp phải biết cội nguồn của Phật pháp”. Bởi vậy, từ lâu ông đã ấp ủ giấc mơ được đặt chân đến nơi khai sinh ra Phật giáo. Ròng rã một thời gian chạy đi chạy lại lo thủ tục xuất ngoại, thông hành, lại phải lo ngại sở mật thám nghi ngờ động cơ mà ngăn trở, cuối cùng, chiều ngày 17/04/1935, ông bắt đầu xuống tàu viễn dương, hành hương về đất Phật.
Ít ai ngờ rằng, để chuẩn bị cho hành trình đầy gian lao đó, thiền sư Minh Tịnh chỉ mang theo bên mình vỏn vẹn mấy đồng bạc lẻ, vài thức chay, một túi đựng kinh và một túi gói mấy bộ y phục cũ sờn. Như được Phật trời phù trợ, trước khi lên tàu, thiền sư Minh Tịnh đã gặp một người gốc Ấn, là đại diện cho Hội phó Hội xã tri Madras – Ấn Độ, thuộc đường Catinat, Sài Gòn (nay là Đồng Khởi, Q.1 TP.HCM). Cảm kích niềm tin và tấm lòng sẵn sàng đối diện thử thách của Minh Tịnh, người này đã thảo hai lá thư tay với nội dung gởi gắm, nhờ đồng đạo, dân bản xứ giúp đỡ vị thiền sư khi ông đến đất lạ quê người.
Và ngay trên xứ sở Phật giáo, thiền sư Minh Tịnh đã tận mắt chứng kiến mọi sự tu hành khổ hạnh, ép xác, nhịn ăn, nhịn uống và rất nhiều lối tu cực kỳ đau khổ của các nhà sư hành đạo nơi đây. Ngoài đạo Phật, Hồi giáo, … Ấn Độ còn xuất hiện nhiều tín ngưỡng kì dị với lối tu phù thủy, bùa chú. Đạo thờ thần cũng có, mà Đạo thờ quỷ cũng có. Họ thờ sơn thần, thọ thần, … la sát, quỷ điểu, chằn tinh, yêu tinh, … Các đạo này có trước thời đức Phật, với những nghi thức tu hành khổ hạnh. Tất cả những điều kì dị ấy, đều được thiền sư Minh Tịnh ghi lại cặn kẽ, và ông chỉ biết ngậm ngùi thương cảm.
Thỉnh Xá lợi Phật
Ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch, năm 1936 dương lịch, thiền sư Minh Tịnh khởi hành đi Nepal. Đường đi mất sáu ngày, vừa ngồi xe lửa, xe hơi, lẫn cả đi bộ. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước nhiệt đới, từ nhỏ đã quen với thời tiết ẩm nóng của phương Nam, vậy mà giờ đây thiền sư Minh Tịnh lần đầu tiên đối diện với cái lạnh khắc nghiệt của hành trình vượt qua Hy Mã Lạp sơn. Là một người con nhà Phật, kiệm lời đã quen, nên sự gian khó vô vàn đó, chỉ được ông mô tả bằng vài lời ngắn ngủi: “Đường đi gay go lắm, núi này cao hơn các núi khác, trèo non, lên đèo, xuống ải, đầu non tuyết đóng như vôi, dải dọc, dải ngang không biết mấy trăm mà kể. Tuyết sa ngập cẳng, lạnh thấu ruột non”. Lại còn bảo: “tự mẹ đẻ tới nay, 48 tuổi mới biết tuyết”. Nhưng cực khổ đói cơm khát nước, ông không hề sợ, chỉ sợ nhất là phải qua 6 trạm ải. Quan binh tra xét rất gắt gao, lúc nào cũng súng ống lăm le chỉa vào người vị thiền sư, để có gì sơ suất là tiện bề vây bắt.
Mới nhập thành Nepal, thiền sư đã vội sắm lễ hành hương, tìm đến tháp Bodhi Gaya (nơi đức Phật thành đạo). Tại đây, như một nhân duyên tốt lành, Minh Tịnh được dịp tận mắt lễ bái những chiếc bình đựng Xá lợi Phật, là tro cốt của đức Phật. Trước kia, Xá lợi Phật được chia ra cho nhiều tháp cùng thờ cúng. Nhưng chiến tranh loạn lạc, đền chùa bị tàn phá, Xá lợi Phật vì thế mà tứ tán khắp nơi. Tháp Bodhi Gaya ở tận Hy Mã Lạp sơn, đường đi gian nan, thời tiết khắc nghiệt nên tránh được họa đổ nát, cũng chính vì thế mà Xá lợi Phật hầu hết được tập trung về đây để thờ cúng, bảo quản. Tuy đã lễ bái, nhưng thiền sư Minh Tịnh lại chưa tận mắt thấy được Xá lợi Phật. Bởi lẽ đó, cả đêm hôm ấy ông trở về nhà trọ mà lòng thổn thức không yên. Sáng ngày mai, Minh Tịnh lại tiếp tục đến Bodhi Gaya. Nhưng đây là chốn linh thiêng, đã được viếng rồi thì không có lần hai. Một lần nữa, nhờ lòng thành tâm, Minh Tịnh được soạn lễ để vào tận mắt thấy Xá lợi Phật. Nhưng thấy được rồi lại muốn thỉnh về, bởi đồng đạo, Phật tử quê nhà không có điều kiện để đi xa ngàn dặm như Minh Tịnh thì làm sao chiêm bái được Xá lợi Phật. Nghĩ như vậy, nên vị thiền sư buồn bã, quên ăn mất ngủ.
Thỉnh Xá lợi Phật từ trước cho đến nay là một điều chưa có tiền lệ. Điều này chính vị quản tháp cũng thừa nhận rằng: “Sáu đời hằng giữ chỗ này, chưa ai có được hồng phúc ấy”. Không lần này thì lần khác, Minh Tịnh cứ kiên nhẫn đến viếng tháp để tỏ lòng thành tâm. Và hồng phúc hiếm có ấy đã được ban cho vị thiền sư người Việt, tuy nhỏ bé nhưng ý chí phi thường. Và cái tâm luôn hướng Phật ấy đã khiến vị quản tháp động lòng và chiếu cố cho ông đặc ân thỉnh Xá lợi Phật về quê hương. Ngày được trao Xá lợi Phật, Minh Tịnh lòng vui không thể giấu. Ông bút tích kể lại như sau: “Nói rồi vị quản tháp bưng bửu bình xuống, bảo bần tăng lấy một cái khăn vải vàng của Bổn đạo để trên đầu trải ra. Ngài trút cả bình trên khăn rồi bần tăng bèn túm khăn lễ bái đi ra. Bần đạo kiếu luôn về chỗ ngụ được dùng bữa ngọ, lòng mừng khấp khởi. Nếu như từ trước tới nay ngàn vạn người thập phương tới viếng tháp mà không được ý nguyện thì riêng một người An Nam đã làm được”.
Video đang HOT
Trở thành nhà hoạt động cách mạng
Ngày 14/06/1937, thiền sư Minh Tịnh trở về Việt Nam và kết thúc cuộc hành trình Tây du Phật quốc. Ông về tới Sài Gòn vào lúc 7h sáng ngày 30/6/1937 (nhằm ngày 22/05 năm Đinh Sửu) sau 2 năm 4 tháng ròng rã.
Thiền sư Minh Tịnh về nước, tiếp tục tu tập tại chùa Thiên Chơn, thuộc địa phận chợ Búng, Bình Dương. Năm 1937, ông Hương cả Trượng ở Phú Cường nghe danh thiền sư Minh Tịnh từ xứ Phật về, nên ông thỉnh thiền sư về trụ trì chùa Bửu Hương tại làng Phú Cường. Ngôi chùa này được xây dựng vào khoảng năm 1930, do ngài Cao Minh và ông Huyện Trương vận động bà con xây dựng. Thiền sư Minh Tịnh sau khi nhận trụ trì chùa Bửu Hương, đã đổi thành tên Tây Tạng Tự để đánh dấu chuyến hành hương Tây du Phật quốc của mình.
Vào năm 1945, Hòa thượng Minh Tịnh được cử làm Chủ tịch Hội Phật giáo Cứu quốc tỉnh Thủ Dầu Một. Vào tháng 06/1946, ông được làm thành viên Mặt trận Việt Minh tỉnh Thủ Dầu Một tại khu Thuận An Hòa. Trong khoảng thời gian này, với lòng yêu nước Hòa thượng Minh Tịnh hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi. Ông là người có công trong phong trào kháng chiến chống Pháp trong giới Phật giáo. Vào năm 1950, thiền sư Minh Tịnh được cử làm cố vấn quân, dân chính tỉnh Thủ Dầu Một. Hòa thượng từng kêu gọi trong giới Phật giáo phải dồn hết sức mình tham gia vào cuộc kháng chiến. Ông dõng dạc khuyên chúng Phật tử: “Khi nào còn chiến tranh thì một viên ngói, một viên gạch cũng không được xây chùa…”.
Một góc kiến trúc chùa Tây Tạng
Tuy công trạng chưa thể sánh bằng với các vị tiền nhân, nhưng ý chí kiên cường và lòng mộ đạo của vị “Tam Tạng Việt Nam” vẫn đủ để người dân khắp nơi và giới Phật tử tự hào. Thiền sư Minh Tịnh viên tịch vào ngày 17/05/1951 (năm Tân Mão), thọ 63 tuổi. Di hài được đưa về chùa Thiên Chơn, và được đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên chùa, nay vẫn còn di tích vẹn nguyên. Thiền sư Minh Tịnh là bậc cao tăng, Phật học, ngài để lại quyển Nhật ký hành trình Tây Thiên Trúc và dịch bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông (do Thành hội Phật giáo TP.HCM xuất bản 1997).
ĐƯỢC SẮC PHONG CỦA QUỐC VƯƠNG TÂY TẠNG
Thỉnh được Xá lợi Phật, thiền sư Minh Tịnh lại viễn du đến Tây Tạng. Ròng rã một thời gian dài, lạnh thì thấu xương, mà nắng thì cháy da người. Nhưng Minh Tịnh không hề quản ngại, ông đi bằng đủ thứ phương tiện, xe lửa, cưỡi ngựa và cả đi bộ. Vừa đi, Minh Tịnh vừa học thêm tiếng Tây Tạng. Vừa đặt chân đến đây, thiền sư Minh Tịnh đã tìm đường đi viếng quốc tự của Tây Tạng, một ngôi chùa to lớn được làm toàn bằng vàng với hàng chục nóc nhà uy nghi, tráng lệ. Sau đó, ông đến viếng quốc vương và dâng lễ vật theo đúng tục lệ, nghi thức của Tây Tạng. Ở đất nước này, quốc vương cũng là một vị Lama (Lạt ma). Vị quốc vương nghe tùy tùng kể về câu chuyện thiền sư Minh Tịnh tự mình vượt hàng ngàn dặm đường, không quản gian lao để một lòng hướng đạo, thì tỏ ra vô cùng cảm mến.
Chính vì thế, ngày 04/10/1936, Thiền sư Minh Tịnh được quốc vương sắc phong pháp danh vô cùng cao quý tại đất nước này là Thubten – Osall Lama. Thubten là tên của Lama Thái thượng hoàng, cha ruột quốc vương. Thubten cũng có nghĩa là viên kim cương, còn Osall có nghĩa là mặt trời, cũng là tên của vị quốc vương. Vì thế, pháp danh Thubten – Osall Lama mang nhiều ý nghĩa cao quý, được thần dân nơi đây cung kính, nể trọng. Thiền sư Minh Tịnh là một trong những vị thiền sư hiếm hoi có được vinh dự này trên xứ sở Tây Tạng, sử sách ghi chép đây như là một trường hợp hy hữu.
Theo xahoi
Hành xử của cha mẹ giúp học sinh trở thành người hoàn thiện
Nhân dịp đến viếng thăm Việt Nam, Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa đã có buổi tọa đàm "Giới trẻ và lòng nhân ái vì xã hội không bạo lực". Tại đây, ngài đã chỉ ra nguyên nhân của bạo lực học đường trong giới trẻ hiện nay.
Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa và Tăng đoàn Truyền thừa Drukpa đến từ Ấn Độ và vương quốc Bhutan đến Hà Nội từ ngày 7/4/2013. Đây là lần thứ 5 Ngài viếng thăm Việt Nam. Từ ngày 9 - 26/4, Ngài sẽ chủ trì các Pháp hội cầu nguyện quốc thái dân an và quán đỉnh cộng đồng tại các chùa lớn ở Hà Nội, Đà Nẵng, TPHCM...
Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa.
Với tâm nguyện hoằng pháp hóa độ cho lớp trẻ, Nhiếp Chính Vương thường đi giảng pháp ở các trường trung học và đại học (thậm chí viếng thăm các nhà tù) tại nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những buổi giảng dạy Phật pháp, theo quan sát của Ngài, thanh thiếu niên đang đứng trước những khó khăn, áp lực trong học tập và đời sống như: phấn đấu vượt qua các kỳ thi nỗ lực học tập để đạt thang điểm cao đặt mục tiêu thi đỗ vào các trường học danh tiếng sự cám dỗ của điều kiện vật chất bên ngoài (mặt trái của sự phát triển)... Những tác nhân này đẩy giới trẻ cuốn nhanh vào guồng quay cuộc sống, khiến họ ít nhiều quên đi những giá trị sống bình dị mà ý nghĩa đó là: sự tri ân, lòng trắc ẩn, tình yêu thương...
Vì lẽ đó, được sự đồng ý của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, Hội Tâm lý Giáo dục học Hà Nội tổ chức Tọa đàm: "Giới trẻ và lòng nhân ái vì xã hội không bạo lực", Nhiếp Chính Vương đã dành phần lớn thời gian để chia sẻ về nghệ thuật sống, cách nuôi dưỡng lòng yêu thương giúp hoàn thiện nhân cách trong xã hội hiện đại. Ngài mong nguyện qua buổi tọa đàm, thông điệp của tình yêu thương và lòng bi mẫn, nét đẹp của Đạo Phật, văn hóa truyền thống Á Đông sẽ giúp gia đình, nhà trường, các em học sinh có một cách nhìn trí tuệ và đúng đắn hơn về sự nghiệp giáo dục. Ngài nhấn mạnh: Mục đích của chuyến viếng thăm Việt Nam không gì khác hơn là truyền tải thông điệp "Sống để yêu thương".
Tại buổi tọa đàm, Đức Nhiếp Chính Vương đã trả lời nhiều câu hỏi về nguyên nhân bạo lực học đường trong giới trẻ hiện nay.
Sự sợ hãi bắt nguồn từ sự thiếu tự tin, thiếu hiểu biết
Thưa Đức Nhiếp Chính Vương, hiện nay, xuất hiện thực trạng bạo lực trong giới học sinh và thanh thiếu niên. Vậy, dưới góc nhìn của Phật giáo, vì sao tình trạng bạo lực xuất hiện ngày càng nghiêm trọng trong lứa tuổi thanh thiếu niên? Cách tiếp cận của Phật giáo để giải quyết vấn đề này là gì?
Đức Nhiếp Chính Vương: Những bạo động hiện tại của chúng ta đều xuất hiện từ sân giận, tức giận và tức giận ấy bắt nguồn từ sự sợ hãi, sợ hãi bắt nguồn từ việc chúng ta thiếu tự tin, thiếu sự hiểu biết. Đa phần hành vi bạo động đều đến từ những đứa trẻ có hoàn cảnh gia đình không hạnh phúc, cha mẹ không hòa thuận hoặc li dị... Như vậy, nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo động của các cháu chính là do các cháu thiếu đi sự giáo dục giá trị. Vì thiếu đi sự hiểu biết mà tâm các cháu bị đóng chặt, không mở rộng để có tình thương, sự tha thứ, sự cảm thông.
Bên cạnh đó, còn có nhân tố khác, có thể cách giáo dục của chúng ta đôi khi ép buộc các cháu nghe lời người lớn. Chính cách ép buộc đó khiến các cháu không thực sự hiểu, vì nghe lời mà theo cách bắt buộc đó. Điều đó đã in vào trong tâm các cháu. Khi ra ngoài cộng đồng, các cháu bắt đầu thể hiện những bạo lực để ép buộc người khác phải nghe lời của mình. Xã hội phát triển mà thiếu đi phần căn bản từ giáo dục thì bạo hành cũng phát triển theo.
Theo tôi, trong thế giới hiện đại, các bậc phụ huynh vất vả cố gắng để cho con mình có được sự giáo dục tốt nhất, tìm cách xoay xở tìm cho con mình những trường học tốt nhất ở Mỹ, Anh... Thế nhưng điều đó chưa đủ bởi chúng ta cho con mình rất nhiều điều kiện để phát triển nhưng chúng ta lại quên mất việc dành cho con cái thời gian để bày tỏ tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, gần gũi.
Chúng ta gửi cho các cháu những điều kiện học tập tốt nhất nhưng các cháu lại không hiểu được cách sống trở thành một người tốt, thành người có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng, xã hội, sống trở thành một người có tình yêu thương. Nên tôi nghĩ, chúng ta cũng cần xem xét lại cách gửi con mình đi học những trường tốt nhất chưa phải là cách tốt nhất để đào luyện cho các cháu trở thành những người trưởng thành, có đạo đức.
Đối với giới trẻ hiện nay, nên nhắc nhở để các cháu biết rằng không phải cả 100 người đều trở thành triệu phú, không phải cả trăm nghìn người đều là ngôi sao điện ảnh. Chúng ta cũng cần nhắc nhở để các cháu biết rằng hạnh phúc không chỉ đơn độc đến từ sự thành công, giàu có, địa vị, quyền lực mà đến từ rất nhiều nhân tố khác nhau trong đó có một nhân tố rất quan trọng đó là sự an bình của nội tâm. Sự an bình của nội tâm trong đạo Phật được gọi là thực hành giáo pháp. Đó có thể là sự thực hành thông qua sự thực tập về thiền định, tụng niệm. Sự an bình đó đóng góp một phần quan trọng cho nền tảng của hạnh phúc, điều này chúng ta cũng nên nhắc nhở để các cháu nhận định được.
Không tạo áp lực khiến các cháu phấn đấu trở thành một thần tượng nào đó viển vông không thực tế mà nên gợi cho các cháu cách nhận ra vấn đề, chỉ ra phương pháp giúp các cháu có thể cân bằng được sự phát triển về vật chất, kiến thức cùng với sự phát triển của tâm hồn.
Đức Nhiếp Chính Vương trong buổi tọa đàm: "Giới trẻ và lòng nhân ái vì xã hội không bạo lực".
Hành xử của người lớn đóng vai trò quyết định trong việc giáo dục học sinh
Xin Nhiếp Chính Vương cho biết vai trò của nhà trường và gia đình để giúp học sinh vượt qua được tình trạng bạo lực học đường?
Đức Nhiếp Chính Vương: Chúng ta đang đón nhận sự giáo dục ở tất cả mọi lúc, mọi nơi cả ti vi và mạng Internet. Không chỉ bài học ở trường mới là giáo dục mà giáo dục trong gia đình là vô cùng quan trọng. Khi đến trường học, các cháu được dạy phải ngoan, hiền, hiếu thảo, biết tha thứ, biết cảm thông... nhưng khi về nhà, các cháu sẽ được áp dụng học bài học đó trên thực tế, từ cách các cháu nhìn những hành xử từ cha mẹ của mình.
Cha mẹ đối xử với nhau như thế nào, nói năng như thế nào, tất cả những hành xử của người lớn thể hiện đối với xã hội sẽ in vào tâm tưởng các cháu. Đôi khi bởi cách hành xử không đúng đắn của người lớn khiến các cháu thấy bài học ở trường không giống với những gì các cháu nhìn thấy trong thực tế, và kết quả các cháu sẽ nghĩ những bài học ở trường chỉ là lý thuyết, để nghiên cứu chứ không thiết thực trong đời sống. Bởi vậy, cách hành xử của cha mẹ chiếm vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục các cháu trở thành những con người hoàn thiện.
Nhân đây, tôi xin một kể câu chuyện để minh họa. Trong gia đình có ông, cha mẹ, con trai. Ông cụ lúc này đã già, ngay cả việc đi vệ sinh cũng không tự mình làm được, nên con trai và con dâu phải hầu hạ vất vả. Người con dâu sau một thời gian hầu hạ cha như vậy cảm thấy không vui, và xui người chồng: ông bây giờ không còn tác dụng gì, sống cũng không có ý nghĩa gì nữa, nên bây giờ bỏ ông vào rừng. Người chồng nghe lời vợ, đưa cha mình vào rừng và dẫn theo cậu con trai khoảng 5 - 6 tuổi.
Đến rừng, người chồng đào một cái hố. Thấy vậy, cậu con trai hỏi bố: Bố ơi, bố làm gì thế? Ông bố trả lời: ông của con bây giờ già quá rồi, sống không có ý nghĩa, tác dụng gì nữa nên bỏ ông xuống hố, xong chôn lại.
Đối với đứa trẻ, đầu óc rất ngây thơ, nên cũng không nói điều đó gì lúc đó. Sau khi đào được một hồi, người bố nhìn về phía xa xa thì thấy cậu bé cũng đang đào một cái hố, người bố liền gọi lại và hỏi: Con đang làm gì thế? Đứa bé trả lời rằng: Con đang đào hố. Tại vì sau này bố già rồi, không làm được gì nữa thì con cũng sẽ bỏ bố xuống cái hố này và chôn đi. Và người bố nói rằng: tại sao con có thể hành xử như vậy, bố là bố của con, rất thương yêu con mà sao con có thể hành xử như vậy? Thì cậu bé có hỏi lại, vậy ông có phải là cha của bố không? Ông có thương yêu bố hay không?
Câu chuyện đã nhắc nhở chúng ta biết rằng tất cả hành xử của người lớn đóng một vai trò quyết định trong việc giáo dục đối với các cháu.
Đức Nhiếp Chính Vương và nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phạm Minh Hạc tại buổi tọa đàm.
Biết bằng lòng với những gì mình có
Đức Nhiếp Chính Vương có nhắn nhủ và tâm nguyện gì dành cho thanh thiếu niên hiện nay?
Đức Nhiếp Chính Vương:Tôi mong nguyện, các cháu thanh thiếu niên sẽ học và biết cách thực hành để nhận ra được giá trị của cuộc sống từ trường học, từ cuộc sống sẽ giúp các cháu hiểu được sống thế nào. Vấn đề quan trọng về giá trị cuộc sống ở chỗ các cháu sẽ trở thành những con người có ích cho xã hội, đem lại lợi ích cho gia đình, người thân xung quanh, ý thức cho cộng đồng thì tâm hồn các cháu sẽ rộng mở hơn, bớt những ích kỷ cá nhân để giúp ích cho xã hội.
Chúng ta nên nhận thức, chúng ta không sống đơn độc mà sống với rất nhiều người, nhiều loài, có môi trường bảo vệ, vì vậy chúng ta cần phát triển ý thức sống không làm hại ai, không làm tổn hại môi trường xung quanh, các loài động vật. Mỗi suy nghĩ, lời nói, hành động của chúng ta đều có thể làm cho thế giới thay đổi. Ảnh hưởng của mỗi cá nhân sẽ làm ảnh hưởng đến toàn xã hội, bởi vậy cần nhận ra được trách nhiệm của mình đối với cuộc sống, môi trường, xã hội để chúng ta thay đổi cuộc sống. Chúng ta đừng mong cuộc sống thay đổi mà chính bản thân mình, tư tưởng, hành động, lời nói của mình bằng động cơ và những thiện hạnh thực sự sẽ làm thay đổi cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tôi mong thế hệ trẻ sẽ không phải sống với những áp lực luôn luôn nghĩ mình sẽ trở thành một người thành công hay có địa vị cao trong xã hội. Nếu chúng ta luôn đem áp lực, tư tưởng như vậy thì có thể gây nên sự bất an, bế tắc và cuộc sống sẽ trở nên nặng nề, khó khăn. Chúng ta phải biết mọi điều trong cuộc sống sẽ đến bằng nỗ lực của chính mình, đồng thời biết bằng lòng với những gì mình có thể đạt được.
Trong cách nhìn của Phật giáo không có công việc nào là tốt hay xấu, đôi khi chúng ta cho rằng làm những công việc như kỹ sư, bác sĩ, giáo viên... là những việc được xem là tốt, còn những việc như quét rác, dọn nhà vệ sinh là những việc tầm thường. Cách nhìn của đạo Phật không đánh giá về hình thức của công việc mà đánh giá từ động cơ của người làm việc. Bởi vì một bác sĩ, giáo viên, kỹ sư, người dọn nhà vệ sinh... khi làm việc họ làm với tất cả sự tập trung, sự trọn vẹn tâm hồn mình, muốn đem đến một cái gì tốt đẹp cho xã hội thì công việc này được gọi là việc tốt. Còn nếu chúng ta làm những công việc có địa vị cao trong xã hội, nhưng với động cơ vị kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân mình thì việc này chưa chắc gọi là tốt.
Xin trân trọng cảm ơn Đức Nhiếp Chính Vương!
Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa Jigme Pema Nyinjadh đản sinh năm 1981 trong dòng tộc của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII, bậc lãnh đạo tối thượng của Truyền thừa Phật giáo Đại thừa - Kim Cương Thừa Drukpa.
Sau quá trình tu học nghiêm cẩn tại Trụ xứDarjeeling, Ấn Độ, Ngài tiếp tục theo học 9 năm và tốt nghiệp Tiến sĩ loại xuất sắc tại Đại học Tự viện danh tiếng Tango (vương quốc Bhutan). Ngài trứ danh với sở học và khả năng thuyết pháp uyên thâm song cũng vô cùng gần gũi, nhân văn.
Theo Dantri
Đại lễ Cầu siêu theo Truyền thống Phật giáo Kim Cương thừa tại Đại Bảo tháp Tây Thiên, Vĩnh Phúc Lễ cầu siêu là nghi lễ tâm linh được các truyền thống Phật giáo đặc biệt coi trọng. Khóa lễ cầu siêu Changwa theo truyền thống Kim Cương Thừa do Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa cử hành tại chùa Vĩnh Nghiêm, TP Hồ Chí Minh, 2011 Nhân dịp tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức lễ hội văn hóa Tây Thiên cùng công tác Phật...