Hàng Việt bắt nhịp ‘tiêu dùng xanh’
Trước tác động của biến đổi khí hậu, môi trường ô nhiễm nặng nề và nguồn tài nguyên dần cạn kiệt, làn sóng “ tiêu dùng xanh” đang lan rộng trên toàn cầu.
Tại Việt Nam sản xuất xanh đang trở thành xu thế tất yếu và là mắt xích quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh. Đây chính là những tín hiệu tích cực để hàng Việt hướng tới sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường nhằm hướng tới một nền kinh tế xanh và bền vững.
Thay vì sử dụng túi nilon để gói như trước đây, các loại rau nay đã được gói bằng lá chuối ở một số siêu thị TP Hồ Chí Minh. Ảnh: ST/baotintuc.vn
Thay đổi nhận thức
Việt Nam là một trong những thị trường bán lẻ và tiêu dùng hấp dẫn ở khu vực và trên thế giới với dân số gần 100 triệu người, trên 50% là dân số trẻ, tổng mức tiêu dùng cuối cùng chiếm khoảng 70% tổng ngân sách quốc nội (GDP). Dự báo đến năm 2025 sẽ đạt 4.900 USD/người và đến năm 2045 khả năng đạt 18.000 USD/năm.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, tại Việt Nam tiêu dùng xanh đang dần thành một xu thế mới và nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề này đã được nâng cao. Do đó, việc tăng cường triển khai và áp dụng các chính sách tiêu dùng xanh ở Việt Nam là giải pháp hữu hiệu để bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Theo số liệu thống kê, có tới 80% người tiêu dùng Việt sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm có cam kết xanh và sạch, sản xuất từ những nguyên liệu thân thiện với môi trường. Điều này cho thấy đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của người tiêu dùng Việt.
Nhận định từ các chuyên gia, tiêu dùng xanh là nội dung quan trọng được đề cập trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 và tầm nhìn đến 2050 của Việt Nam.
Bởi vậy, nhiều đơn vị đang thực hiện các chương trình kích cầu tiêu dùng xanh, nỗ lực chung tay giảm rác thải nhựa, hạn chế sử dụng túi nilon. Thế nhưng, việc thay đổi thói quen sử dụng túi nilon và các sản phẩm nhựa dùng một lần trong thời gian ngắn không dễ dàng.
Thời gian qua, nhiều siêu thị lớn của Việt Nam đã có những hành động cụ thể và thiết thực để giảm thiểu túi nilon cũng như khuyến khích dùng túi sử dụng nhiều lần, chương trình tích điểm khi không sử dụng túi nilon.
Chẳng hạn như nhiều hệ thống siêu thị đã sử dụng phương pháp bọc hàng hóa, sản phẩm bằng lá chuối thay thế dần túi nilon hay Công TNHH AEON Việt Nam có dịch vụ cho thuê túi môi trường, khách hàng sẽ được hoàn tiền khi mang trả túi cho lần mua hàng tiếp theo.
Cùng chung tay với chiến dịch này, các hãng hàng không Vietjet Air hay Bamboo Airways cũng đặt trọng tâm về kế hoạch sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường trên các chuyến bay…
Đặc biệt, nhiều tổ chức, đơn vị tư nhân trên cả nước đã đứng ra vận động người dân mang đổi vỏ chai nhựa để lấy cây xanh. Các cửa hàng nước giải khát thay vì sử dụng ống hút nhựa đã chuyển sang phục vụ ống hút giấy, dùng cốc sử dụng nhiều lần…
Cần lộ trình cụ thể
Video đang HOT
Là đơn vị chuyên cung cấp mộc nhĩ đóng gói, ông Nguyễn Tân Phú, Giám đốc Công ty TNHH Thế giới dinh dưỡng – Nutriworld chia sẻ, để hàng Việt ngày càng trở nên thân thiện với người tiêu dùng và giảm thiểu tác động đến môi trường, khoảng 5 năm trở lại đây, ngoài các phương pháp sơ chế tự nhiên, công ty còn đóng gói bao bì giấy để dần thay thế cho các loại bao bì nilon khó phân hủy.
Tuy nhiên, chi phí sử dụng bao bì giấy gần gấp đôi so với bao bì nilon nên công ty chủ yếu sản xuất theo nhu cầu. Nếu đối tác nào chấp nhận giá cao công ty sẽ sử dụng bao bì giấy, còn không vẫn dùng bao bì nilon.
Lãnh đạo Tập đoàn An Phát Holdings cho biết, từ năm 2013 đến nay, doanh nghiệp đã nghiên cứu và phát triển thương hiệu xanh AnEcop; trong đó, có túi sinh học phân hủy thân thiện với môi trường.
Dù phủ xanh thị trường của 20 quốc gia trên thế giới, chinh phục những thị trường khó tính nhất như Nhật, Mỹ, Canada và nhiều nước châu Âu nhưng hiện tại sản phẩm này vẫn khó nhân rộng tại các siêu thị Việt Nam.
Lý giải rõ hơn, đại diện Tập đoàn An Phát Hoidings đã chỉ ra sự chênh lệch giá thành chính là một trong những rào cản khiến bao bì xanh chưa đến tay đại đa số người tiêu dùng nội địa.
Hơn nữa, chi phí sản xuất cao và phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu nên bao bì xanh có giá cao hơn nhiều so với túi nhựa thông thường.
Hiện tại, túi sinh học phân hủy đạt tiêu chuẩn quốc tế trên thị trường có mức giá dao động từ 140.000 – 160.000 đồng/kg trong khi túi nilon chỉ khoảng từ 20.000 – 40.000 đồng/kg.
Cũng trong hành trình hướng tới xanh hoá ngành dệt may, nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này nhìn nhận khách hàng trong nước chưa chú trọng nhiều đến nguyên liệu xanh, thế nhưng rất nhiều đối tác nước ngoài đã tìm đến đặt hàng và doanh nghiệp trong nước đã đáp ứng nhu cầu này.
Tuy nhiên, nguyên liệu xanh trong ngành dệt may tại Việt Nam vẫn đang ở bước dò đường và doanh nghiệp đã gặp không ít trở ngại trong quá trình phát triển phân khúc sản phẩm này để hàng Việt thân thiện và gần gũi hơn tới tay người tiêu dùng..
Đáng lưu ý, khó khăn lớn nhất là giá thành vải làm từ các loại sợi xanh còn quá cao so với các nguyên liệu khác khiến doanh nghiệp sản xuất phải trả thêm từ 30 – 40%, thậm chí 70 – 80% chi phí so với sợi thông thường.
Theo các chuyên gia, về lâu dài, khi nhu cầu gia tăng và công nghệ phát triển, các sản phẩm “xanh” sẽ được sản xuất đại trà với chi phí thấp hơn, doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn nhưng quan trọng nhất vẫn là đầu ra.
Bởi nếu sản phẩm có thị trường tiêu thụ tốt, đầu ra mạnh sẽ tạo đà để doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, sản xuất nguyên liệu và sản phẩm thân thiện với môi trường nhiều hơn. Còn hiện tại, nhu cầu thị trường chưa lớn nên trong nước chưa có nhiều doanh nghiệp lựa chọn hướng đi này.
Bà Lê Việt Nga – Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho biết, từ năm 2015-2020, Bộ Công Thương đã tổ chức nhiều chương trình tiêu dùng bền vững, tăng trưởng xanh và sản xuất sạch hơn và đã có tín hiệu khả quan.
Chẳng hạn trong những hệ thống phân phối của Việt Nam tại thị trường nội địa đã có nhiều gian hàng dành riêng cho những hàng hóa hướng tới tiêu dùng xanh.
Tiêu biểu như sản phẩm tiết kiệm năng lượng, ít sử dụng đến tác nhân gây hại môi trường như sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp an toàn cho sức khỏe người lao động và môi trường. Đặc biệt, có những hoạt động tuyên truyền hạn chế sử dụng túi nilon và những sản phẩm ô nhiễm môi trường khác làm từ nhựa…
Để hạn chế được tình trạng này, đạt mục tiêu đến năm 2025 sử dụng 100% túi nilon, bao bì thân thiện với môi trường, Bộ Công Thương đã ban hành Chỉ thị tăng cường những giải pháp để hạn chế các sản phẩm nhựa trong ngành công thương, không chỉ trong khâu sản xuất mà cả khâu tiêu dùng.
“Đây cũng là một trong những văn bản có tính quyết định trong giai đoạn tới đây khi Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050″, bà Lê Việt Nga khẳng định.
Nông nghiệp xanh - Bài cuối: Phá vỡ các rào cản
Xu hướng phát triển nông nghiệp xanh, thân thiện môi trường đang là hướng đi được nhiều nước trên thế giới lựa chọn.
Thu hoạch rau tại trang trại của gia đình nông dân Nguyễn Văn Công ở xã Đa Quyn, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Ảnh (tư liệu): Vũ Sinh/TTXVN
Tại Việt Nam, nhiều địa phương, nhiều mô hình cũng đã và đang trong quá trình chuyển đổi phát triển nông nghiệp xanh, sinh thái theo xu hướng thị trường thế giới cũng như giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Chia sẻ về những định hướng cũng như các giải pháp phát triển nông nghiệp xanh, phát thải cac-bon thấp, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với GS. TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng danh dự trường Đại học Nam Cần Thơ.
Ông đánh giá như thế nào về triển vọng và thách thức đối với phát triển nông nghiệp xanh ở Việt Nam hiện nay?
Nông nghiệp xanh có thể hiểu đơn giản là nền nông nghiệp phù hợp với môi trường sinh thái, không phát thải khí nhà kính. Việt Nam hướng tới nền nông nghiệp xanh là cần thực hành nông nghiệp để không phát thải khí nhà kính, không gây ra tác động biến đổi khí hậu.
Sản xuất nông nghiệp cần phải hướng đến chất lượng để giữ môi trường bền vững, chứ không phải mong muốn năng suất phải rất cao như trước đây. Hiệu quả kinh tế mang lại khi áp dụng quy trình "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm" đã rõ, giá thành lúa giảm mà gạo đạt chất lượng gạo sạch, an toàn. Việc áp dụng đồng bộ các quy trình ngoài hiệu quả kinh tế mang lại, còn giúp giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Hiện phần lớn nông dân không làm nông nghiệp xanh vì đang sử dụng quá nhiều hóa chất, nhất là phân bón hóa học. Khi nông dân lạm dụng phân bón hóa học sẽ gây ra các phản ứng trong đất, biến phân bón hóa học thành các khí nhà kính, gây nên biến đổi khí hậu.
Chẳng hạn, nông dân trồng lúa, hoa màu... bón nhiều phân urê thì sẽ tạo ra nhiều khí NO2. Đây là khí độc, làm cho khí quyển ấm lên, gây biến đổi khí hậu.
Trước tình trạng biến đổi khí hậu, nông dân khắp nơi trên thế giới đang tiến tới áp dụng sản xuất nông nghiệp xanh, sử dụng phân bón vi sinh, hữu cơ thay cho phân hóa học. Việc này sẽ giúp phục hồi tình trạng nguyên thủy của đất với nhiều vi sinh vật, có thể biến khoáng chất trong đất thành chất bổ dưỡng tự nhiên cho cây trồng. Từ đó, sản phẩm của nông dân sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng thời giúp cho khí hậu không bị biến đổi.
Khi chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp đang thâm dụng tài nguyên, lạm dụng hóa chất, sang nền nông nghiệp xanh, thân thiện môi trường vẫn khoảng cách khá xa và còn nhiều rào cản. Theo ông, rào cản lớn nhất là gì?
Rào cản lớn nhất chính là kiến thức khoa học của nông dân. Khi nông dân không nắm được kiến thức thì sẽ rất dễ lạm dụng các hóa chất. Do đó, nông dân cần ý thức được việc sử dụng hóa chất để tăng năng suất, sản lượng cây trồng trong giai đoạn đầu sẽ cho kết quả cao, nhưng càng sau này kết quả sẽ không như mong đợi, thậm chí gây tác hại lên cây trồng, môi trường đất, nước.
Vấn đề quan trọng là cần nâng cao kiến thức cho người nông dân - người đầu tiên tác động vào sản xuất nông nghiệp.
Hiện nông dân đã bắt đầu nhận thấy rằng nguyên liệu của họ được chế biến, xuất khẩu sang các thị trường, chẳng hạn như sang EU và bị trả về do vi phạm về các chất cấm, chất lượng không đảm bảo... Chính đây là điều nông dân cần nhận thấy để thay đổi trong sản xuất.
Bởi, nếu cứ tiếp tục sản xuất theo kiểu cũ thì sản phẩm của họ sẽ không được tiêu thụ.
Mặt khác, tôi cho rằng Nhà nước cần tích cực tuyên truyền để nông dân hướng đến sản xuất nông nghiệp xanh, sạch. Thị trường tiêu thụ cũng cần hướng đến như các nước tiên tiến áp dụng là sản phẩm còn vi phạm về chất lượng thì sẽ không được tiêu thụ.
Theo ông, Nhà nước cần có cơ chế chính sách gì để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người nông dân hướng đến phát triển nền nông nghiệp xanh?
Cần đưa nông dân vào các hợp tác xã, tổ đoàn kết sản xuất... để cùng sản xuất theo quy trình nông nghiệp sạch. Khi nông dân cùng tham gia sản xuất với quy trình chuẩn thì sản phẩm của họ sẽ được tiêu thụ bởi các tập đoàn, doanh nghiệp lớn với giá cao hơn. Từ đó, nông dân sẽ thấy rằng, làm theo nông nghiệp sạch, nông nghiệp xanh sẽ không bị thua lỗ nhờ giá sản phẩm cao hơn.
Khi liên kết sản xuất, nông dân sẽ được áp dụng những khoa học kỹ thuật mới. Sản xuất nông nghiệp không phát thải, nông dân cũng có thể được thụ hưởng từ việc bán tín chỉ cac-bon. Việc bán tín chỉ cac-bon cũng thu được khoản tài chính cho nông dân nhưng cái được lớn hơn là giúp cho không khí, môi trường nước sạch, phù hợp với sinh thái tự nhiên.
Hiện nhiều doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã, nông dân sản xuất nông nghiệp sạch. Nông dân được hướng dẫn sản xuất ngay từ ban đầu với các quy trình kỹ thuật. Doanh nghiệp cũng thu mua nguyên liệu cho nông dân. Nông dân sản xuất sạch thì sản phẩm cũng được xuất khẩu tốt.
Chẳng hạn như những mô hình sản xuất nông nghiệp sạch của Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An. Nông dân liên kết với doanh nghiệp, sản phẩm được đảm bảo về chất lượng theo yêu cầu thị trường thì nông dân cũng hưởng lợi từ thành quả đó. Đây là những mô hình cần được đẩy mạnh, nhân rộng.
Những doanh nghiệp làm được nông nghiệp sạch cần được tuyên truyền, khuyến kích, động viên để doanh nghiệp dẫn dắt nông dân tham gia thị trường nông nghiệp xanh.
Vai trò của doanh nghiệp là chủ đạo. Nhà nước cần có những cơ chế chính sách khuyến kích, thu hút doanh nghiệp đi đầu trong xây dựng nền nông nghiệp xanh để họ mở thị trường. Mở được thị trường, doanh nghiệp sẽ quay trở về vùng nguyên liệu để áp dụng những tiến bộ kỹ thuật để sản xuất nông nghiệp sạch. Từ thị trường, doanh nghiệp sẽ "điều khiển" nông dân sản xuất xanh, sạch.
Cùng với đó, Nhà nước cũng phải có các quy định khắt khe trong việc sử dụng các hóa chất độc hại. Việc buôn bán, sử dụng hóa chất cấm độc hại phải được kiểm tra, kiểm soát và xử phạt thật nặng nếu các cơ quan chức năng phát hiện.
Xin cảm ơn ông!
Nông nghiệp xanh - Bài 3: Giải pháp canh tác hữu cơ Khi hóa chất nông nghiệp đang gây quan ngại ngày càng lớn về tác động đến môi trường và sức khỏe cộng đồng, nhiều quốc gia đang thúc đẩy canh tác hữu cơ như một giải pháp xanh và bền vững. Sản xuất rau thủy canh ăn lá tại hợp tác xã Nông sản hữu cơ Kiên Giang, phường An Bình, thành phố...