Hàng giả len lỏi, người tiêu dùng “bó tay”
Không ít ý kiến cho rằng nạn hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa bệnh đang khá phổ biến trên thị trường là do công tác xử lý không hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Thậm chí, ngay cả khi xử lý bằng hình sự thì tính trừng phạt và răn đe cũng không thật sự được coi trọng, do việc áp dụng các tình tiết định khung và hình phạt đối với những người phạm tội thường không tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm.
Lực lượng công an triệt phá một vụ hàng giả là thực phẩm
Tác hại khôn lường
Cuối tháng 4 vừa qua, TAND TP Hà Nội đã quyết định tuyên phạt Hoàng Thị Hồng Liên (SN 1982, ở thị trấn Hưng Nguyên, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) 36 tháng tù về tội “Buôn bán hàng giả là thực phẩm”. 2 bị cáo trong vụ án cũng lần lượt bị tuyên phạt từ 20-24 tháng tù. Trước đó, đầu năm 2015, lực lượng chống hàng giả của CATP Hà Nội phối hợp với một số đơn vị liên quan kiểm tra, phát hiện một xe ôtô tải chở 6 thùng carton chứa 170 hộp thực phẩm chức năng (TPCN) giả là sữa ong chúa của những thương hiệu như Royal Jelly Costar, Collagen.
Mở rộng vụ án, CQĐT đồng loạt khám xét khẩn cấp 6 kho chứa hàng của Liên ở tỉnh Bắc Ninh và thu giữ một số lượng lớn TPCN giả các loại gồm: sữa ong chúa Royal Jelly Costar, nhau thai cừu Placentra Essence, Glucosamin, Collagen A, E, C cùng nhiều máy móc, nguyên liệu sản xuất hàng giả.
Trong số hàng hóa bị thu giữ, có tới gần 10.000 hộp TPCN giả là sữa ong chúa đã được đóng gói giống hệt hàng thật của một doanh nghiệp chuyên độc quyền phân phối loại sản phẩm này tại Việt Nam. Bị xét xử, bị cáo Liên khai nhận kinh doanh TPCN từ cuối năm 2013, sau đó, nhập khẩu các nguyên liệu không rõ nguồn gốc từ Trung Quốc về đóng gói thành các hộp TPCN bán ra thị trường với những thương hiệu nêu trên.
Tai hại hơn, Nguyễn Anh Văn (SN 1982, trú ở xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, Quảng Ninh) – Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và đầu tư LV France cùng đồng bọn còn sản xuất, buôn bán cả thuốc chữa bệnh giả là thuốc điều trị, dự phòng tai biến mạch máu não và thuốc bổ sung kẽm (Lumbrotine, Zine-Kid). Chỉ trong thời gian ngắn (từ tháng 7 đến tháng 11-2014), Văn và đồng bọn đã “chế” ra 5.000 hộp thuốc Zine-Kid cùng 700 lọ thuốc Lumbrotine tung vào thị trường.
Để không bị phát giác, Văn liên tục thay đổi địa điểm sản xuất thuốc chữa bệnh giả. Bị đưa ra tòa xét xử, Văn khai nhận để cho ra đời 2 loại sản phẩm thuốc chữa bệnh giả nêu trên, đối tượng tìm mua TPCN, hạt cốm kẽm và hàng chục nghìn viên nang trơn. Để hoàn thiện hàng giả, đối tượng đặt in bao bì, vỏ hộp giấy, hướng dẫn sử dụng thuốc, túi nilon nhỏ và tem dán giả thuốc thật.
Video đang HOT
Hai đối tượng sản xuất thuốc giả bị đưa ra tòa xét xử
Luật nghiêm khắc nhưng khó chứng minh
Không ít ý kiến cho rằng nạn hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa bệnh đang khá phổ biến trên thị trường là do công tác xử lý không hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Đơn cử, mặc dù sản xuất, buôn hàng giả là TPCN với số lượng lên tới hàng chục nghìn hộp nhưng Hoàng Thị Hồng Liên chỉ bị xử phạt 3 năm tù giam. Còn 2 bị cáo phạm tội với vai trò giúp sức tích cực cho Liên cũng chỉ phải nhận từ 20 tháng tù đến 24 tháng tù.
Ở vụ án Nguyễn Anh Văn cùng đồng bọn, mức án cao nhất áp dụng với bị cáo cầm đầu, khởi xướng và giữ cả vai trò thực hành tội phạm cũng chỉ 36 tháng tù. Cá biệt, có bị cáo cùng vụ án chỉ bị áp dụng 18 tháng tù và được án treo. Trong khi ấy, kết quả điều tra cho thấy ổ nhóm của Văn đã cho “ra lò” hàng nghìn hộp thuốc chữa bệnh giả.
Nhìn nhận về tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả, luật sư Giang Hồng Thanh – Trưởng VPLS Giang Thanh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết, theo quy định tại Điều 157 của BLHS hiện nay: “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ 2-7 năm”.
Điều đó có nghĩa chỉ cần có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh hoặc thuốc phòng bệnh là đã bị phạt tù thấp nhất 2 năm và cao nhất là 7 năm. Còn nếu tội phạm có tính tổ chức, chuyên nghiệp hoặc gây hậu quả nghiêm trọng… thì mức phạt tù có thể lên đến 12 năm và thấp nhất là 5 năm. Và theo khoản 4 của điều luật thì hình phạt là 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Cũng theo luật sư Giang Thanh, với quy định của pháp luật nêu trên thì rõ ràng chế tài đối với loại tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa bệnh là rất nghiêm khắc. Tuy nhiên, loại tội phạm này hiện vẫn có chiều hướng gia tăng, gây tâm lý lo lắng, hoang mang đối với người dân. Sở dĩ như vậy là có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do lợi nhuận cao nên các đối tượng bất chấp hậu quả đối với xã hội.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các tình tiết định khung và hình phạt đối với những người phạm tội thường không tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm. Vì thực tiễn các vụ án được đưa ra xử lý gần đây phần lớn chỉ bị áp dụng theo khoản 1, Điều 157-BLHS (mức khởi điểm), trong khi khối lượng, giá trị hàng hóa giả lại khá lớn. Đặc biệt, theo pháp luật hình sự thì phải chứng minh được hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì mới có căn cứ truy tố, xét xử và áp dụng hình phạt nghiêm khắc. Trong khi ấy, đa phần thực phẩm, thuốc chữa bệnh giả lại không gây ra hậu quả một cách tức thì về mặt sức khỏe. Tác hại mà nó gây ra thường âm ỉ, kéo dài và khôn lường.
Một thẩm phán TAND TP Hà Nội chia sẻ, việc truy tố và xét xử các vụ án hàng giả là thực phẩm, thuốc chữa bệnh gần đây chủ yếu mới chỉ đánh giá được hậu quả phần nào về mặt kinh tế (giá trị hàng hóa bị làm giả và thu lời bất chính). Còn về sức khỏe con người cũng như những thiệt hại kinh tế của người tiêu dùng thì rất khó “cân đong đo đếm”. Do đó, các HĐXX và tòa án rất khó áp dụng một mức án thật nghiêm khắc đối với những người phạm tội. Bởi như thế sẽ không bảo đảm được các nguyên tắc xét xử.
Trung tá Phạm Giang Sơn (Phòng Cảnh sát Môi trường – CATP Hà Nội): Chế tài xử lý hình sự những trường hợp buôn bán hàng giả, trong đó có thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm là khá nghiêm khắc. Bởi về mặt hình thức, khi cơ quan chức năng phát hiện một mặt hàng nào đó là hàng giả thì đã bị khởi tố hình sự. Tuy nhiên, đối với một số mặt hàng thực phẩm thông thường như: thịt trâu giả thịt bò hay thịt lợn nái giả thịt bò thì đây chỉ là hành vi lừa dối người tiêu dùng. Khi phát hiện ra cũng chỉ xử lý về mặt hành chính, vì truy cứu hình sự thì phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố. Đơn cử, nếu là hàng giả thì phải xem xét tới yếu tố giả tem mác, thương hiệu… Trong khi đó, loại hàng hóa bị sản xuất, buôn bán giả phải được đăng ký bản quyền, chất lượng, sở hữu trí tuệ.
Theo An Ninh Thủ Đô
Khốn đốn hàng Trung Quốc đội lốt, made in Việt Nam toàn hàng giả
Quần áo thời trang Trung Quốc đội lốt nhãn hiệu thời trang Made in Vietnam, Hàng Việt Nam xuất khẩu... được bày bán tràn lan trên thị trường nguy cơ lũng đoạn, lấn át thị trường nội. Made in Vietnam,.
Made in Vietnam, xuất khẩu Việt Nam... đều là hàng giả
Mới đây, Công an tỉnh Đồng Nai đã phát hiện, bắt giữ hàng trăm sản phẩm quần áo giả nhãn hiệu của Công ty may Việt Tiến tại một số cửa hàng bán quần áo trên địa bàn TP Biên Hòa... Đây không phải là lần đầu tiên, một hãng thời trang của Việt Nam bị làm giả nhãn hiệu.
Khi nói về vấn nạn hàng Trung Quốc đội lốt thương hiệu thời trang của Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, ông Vũ Đức Giang chia sẻ với PV: Các nhãn hiệu hàng thời trang như: Made in Việt Nam, hàng xuất khẩu Việt Nam... thực chất đều là hàng giả hết!
"Tôi đã từng sang vùng Quảng Châu (Trung Quốc), nơi được coi là thiên đường hàng nhái (hàng fake - PV) thì thấy ở đây họ sản xuất những sản phẩm nhỏ nhất là từ cái răng áo, khuy áo, thời trang bình dân đến các sản phẩm mang thương hiệu thời trang lớn trên thế giới trong đó có cả hàng Việt Nam.
Không biết bằng con đường nào đó, những mặt hàng này được chuyển về Việt Nam và len lỏi vào các cửa hàng với thương hiệu: Made in Vietnam, hay hàng Việt Nam xuất khẩu... Do đó những cửa hiệu bán hàng này đều là hàng giả hết",ông Giang khẳng định.
Theo một lãnh đạo doanh nghiệp dệt may cho hay, thương hiệu thời trang của vị doanh nghiệp này cũng đã từng bị làm giả và ông đã mất một thời gian để tìm hiểu, đi khảo sát và tìm ra được cơ sở chuyên sản xuất hàng nhái mang thương hiệu của doanh nghiệp ông. Theo vị doanh nghiệp này, không riêng gì nhãn hiệu thời trang của doanh nghiệp ông mà có rất nhiều nhãn hàng khác cũng bị làm nhái.
"Mỗi cơ sở sản xuất chỉ cần có khoảng từ 20-30 lao động, thậm chí là 5-10 người lao động, là họ có thể sản xuất được một số mặt hàng thời trang y hệt các thương hiệu được bán trên thị trường. Họ làm giả được với những thương hiệu bình dân như thời trang xuất khẩu Việt Nam, Made in Vietnam,... cao hơn nữa là những nhãn hiệu thời trang cao cấp của nước ngoài có giá trị lớn",vị doanh nghiệp trên tiết lộ thêm.
Các nhãn hiệu hàng thời trang như: Made in Việt Nam, hàng xuất khẩu Việt Nam... thực chất đều là hàng giả
Thời trang Việt thua đau trên sân nhà
Chia sẻ về vấn nạn hàng giả, hàng Trung Quốc trà trộn đội lốt thương hiệu hàng Việt, ông Bùi Đức Thịnh, Tổng Giám đốc Công ty may Sông Hồng, là một trong 5 doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất Việt Nam nói: Ngay như sản phẩm chăn ga gối đệm khá nối tiếng của Sông Hồng cũng đã bị hàng Trung Quốc trà trộn vào làm giả, làm nhái khiến công ty gần như bất lực, không thể làm gì hơn ngoài việc khuyến cáo người tiêu dùng và hướng dẫn họ cách phân biệt hàng thật, hàng giả.
"Tại sao tôi không dám sản xuất quần áo? Vì tôi làm sẽ thất bại ngay bởi chưa nói đến các "thủ phủ" hàng fake ở nước ngoài như Quảng Châu, mà ngay trong nước thôi, nhiều trung tâm sản xuất hàng giả nối tiếng cả nước như: Đáp Cầu (Bắc Ninh), Thổ Tang (Vĩnh Phúc)..., vẫn tồn tại và phát triển bao năm nay mà không có lực lượng chức năng nào xử lý cũng đã đủ để nói về vấn nạn khủng khiếp này rồi!", ông Thịnh bức xúc nói.
Trên thực tế, hàng giả, hàng Trung Quốc gắn mác hàng Việt lại có giá cực rẻ. Để chứng minh cho thực tế này, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam Vũ Đức Giang đưa ra ví dụ: "Để may một chiếc áo sơ mi bình thường sản xuất ở nhà máy có tiêu chuẩn, chất lượng thì mỗi mét vải có giá khoảng 180 USD. Nhưng cũng một mét vải đó nếu sản xuất ở một cơ sở gia công nào đó không kiểm soát được chất lượng thì giá mỗi mét vải này chỉ khoảng 80 USD thôi nên giá chiếc áo sơ mi ở cở sở may gia công chỉ bằng khoảng so với giá chiếc ao sơ mi có chất lượng".
Hàng bên ngoài không ai có thể kiểm chứng được chất lượng nhưng vì giá rẻ nên được người tiêu dùng ưa chuộng, trong khi hàng Việt có đủ các tiêu chuẩn an toàn về thuốc nhuộm cũng như hóa chất nhưng vì giá cao gấp đôi nên ít người mua. Doanh nghiệp nội thua đau trên sân nhà cũng là một trong những nguyên do này.
Theo Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam Vũ Đức Giang, hiện một số thương hiệu thời trang trong nước như May 10, Việt Tiến hay Nhà Bè... đều đã chiếm được thị phần trong nước.
Tuy nhiên, thị trường nội địa với sức mua hơn 90 triệu dân được đánh giá là thị trường rất tiềm năng. Nhưng hiện tại, doanh nghiệp trong nước mới chiếm lĩnh được khoảng 20-30% thị phần. Trong khi ngày càng có nhiều hàng lậu, hàng nhái kém chất lượng, nhất là hàng thời trang Trung Quốc đội lốt hàng Việt bày bán tràn lan trên thị trường lại được người tiêu dùng ưa chuộng vì giá rẻ khiến cho nhiều thương hiệu thời trang trong nước gần như không còn chỗ đứng cho riêng mình.
Theo_Phụ Nữ News
Pinaco hành trình 40 năm niềm tin thắp sáng niềm tin Với nhiều người, sở hữu một chiếc ô tô, xe máy hay một chiếc điện thoại hiện đại...là cả một ước mơ tưởng chừng khó đạt được. Đó cũng là khát khao để họ lao động và vươn lên trong cuộc sống. Hiểu được trăn trở và mong mỏi đó, Pinaco một thương hiệu lâu đời với hành trình 40 năm cùng niềm...