Hải lưu Đại Tây Dương chảy chậm nhất 1.600 năm, viễn cảnh tận thế xuất hiện
Hệ thống hải lưu Đại Tây Dương suy yếu nhất trong hàng ngàn năm qua đang làm dấy lên những lo lắng về tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp và ngày càng trở nên trầm trọng. Viễn cảnh “đại dương tê liệt” đang ở ngay trước mắt.
Bối cảnh trong bộ phim viễn tưởng The Day After Tomorrow dựa trên hiện tượng các dòng hải lưu trong đại dương đột ngột ngừng chảy – Ảnh chụp màn hình
Theo kết luận từ một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Geoscience , các hải lưu ở Đại Tây Dương đóng vai trò quan trọng trong việc phân bố lại lượng nhiệt trong hệ thống khí hậu của Trái đất.
Trong bộ phim The Day After Tomorrow (tựa tiếng Việt là Ngày kinh hoàng ) năm 2004, khi các dòng hải lưu đột ngột ngừng chuyển động, siêu bão đã nổi lên toàn cầu, phá hủy các công trình và đẩy loài người đến ngày tận thế. Bộ phim viễn tưởng này dựa trên các kiến thức khoa học có thật nhưng phóng đại hậu quả để ăn khách.
Theo Đài CBS News, nếu hệ thống hải lưu đột ngột ngừng chuyển động, bão có thể xuất hiện nhưng không đến mức tàn khốc như trong phim. Tuy nhiên, về lâu dài sẽ có các tác động tiêu cực lên Trái đất vì hiện tượng này là không thể tránh khỏi.
Điều đáng lo ngại là hệ thống hải lưu Đại Tây Dương đang bắt đầu chậm lại và hiện đang chảy chậm nhất trong vòng 1.600 năm qua.
Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân một phần của tình trạng này có liên quan trực tiếp đến hiện tượng ấm lên toàn cầu, vì băng tan dẫn đến sự mất cân bằng ở vùng biển phía bắc.
“Điều này làm dấy lên những lo ngại rằng nếu con người không thể kiểm soát hiện tượng nóng lên toàn cầu, một lúc nào đó hệ thống các dòng chảy có thể đạt đến điểm giới hạn, các mô hình khí hậu toàn cầu có nguy cơ trở nên hỗn loạn”, Đài CBS trích dẫn nghiên cứu ngày 25-2.
Dòng hải lưu Gulf Stream (hay dòng Vịnh) ở khu vực đông duyên hải Mỹ là một phần không thể thiếu của hệ thống các dòng chảy này, được biết đến với tên Dòng đối lưu kinh tuyến Đại Tây Dương, hay AMOC.
Nghiên cứu gần đây đã cho thấy dòng hải lưu Gulf Stream đã di chuyển chậm hơn 15% kể từ năm 1950, một sự suy yếu chưa từng có trong vòng một thiên niên kỷ qua. Nếu con người tiếp tục phớt lờ hiện tượng nóng lên toàn cầu, tốc độ di chuyển của Gulf Stream sẽ chậm lại từ 34% đến 45%.
Một trong những hậu quả dễ thấy khi hải lưu chảy chậm là mực nước biển dâng cao, ví dụ như miền đông duyên hải Mỹ.
Video đang HOT
Theo bà Levke Caesar – nhà vật lý khí hậu tại Đại học Maynooth ở Ireland, khi dòng chảy chậm lại, nước có thể tích tụ nhiều hơn dẫn đến mực nước biển dâng cao đe dọa các thành phố New York và Boston.
Sa mạc nơi sản sinh những cơn bão kinh hoàng nhất
Sa mạc Sahara nằm ở Bắc Phi được coi là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự hình thành của những siêu bão khủng khiếp quần thảo khu vực Đại Tây Dương.
Khoảng 83% các cơn bão lớn cấp 3, 4, 5 (của Mỹ) đổ bộ vào Bắc Mỹ bắt nguồn từ Cape Verde, một quốc đảo nằm ở trung tâm Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi 570 km.
Những cơn bão nổi lên từ Cape Verde thường xác lập kỷ lục về quy mô, mức độ tàn phá và thời gian tồn tại.
Bão hình thành từ Cape Verde thường biến thành siêu bão khi tiến vào Đại Tây Dương. Ảnh: NASA.
Trung bình, mỗi năm có khoảng 12 cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào Đại Tây Dương. Chỉ khi sức gió đạt 119 km/h, một áp thấp nhiệt đới mới được xác định là bão.
4/9 cơn bão hoạt động trên Đại Tây Dương trong năm 2020 (tính đến tháng 10) được cho là bắt nguồn từ châu Phi.
Tương tự những cơn bão Cape Verde khác, 4 cơn bão nói trên hình thành từ những đường gấp khúc lớn trong luồng không khí trải khắp châu Phi từ đông sang tây.
Luồng không khí này chịu tác động của sự chênh lệch nhiệt độ giữa khu vực rộng lớn trống trải bên dưới và vùng bán khô hạn Sahel ở phía nam sa mạc Sahara.
Không khí "biến dạng"
Sa mạc Sahara với diện tích lên đến 8,5 triệu km 2 trải rộng trên 11 quốc gia Bắc Phi liên tục phả ra luồng không khí khô và nóng vào bầu khí quyển.
Theo nhà khoa học khí quyển Philip Klotzbach tại Đại học Bang Colorado, "sự chênh lệch nhiệt độ giữa sa mạc Sahara khô nóng và vùng Sahel ẩm mát đã gia tăng dòng phản lực của không khí".
Sau khi chạm ngưỡng độ cao vài km so với mặt đất, không khí nóng từ sa mạc Sahara bị đẩy về phía nam và gặp luồng khí mát phía trên vùng Sahel và vịnh Guinea.
Quỹ đạo của Trái Đất làm dòng không khí này chuyển hướng sang phía tây, từ đó tạo ra luồng khí mạnh xuyên lục địa và phóng thẳng ra Đại Tây Dương.
Khí nóng và bụi từ sa mạc Sahara ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành bão. Ảnh: NOAA
Không khí ấm bị đẩy lên khu vực đồi núi ở Đông Phi như dãy Murrah hay cao nguyên Ethiopia tạo thành những nếp gấp khúc khổng lồ trong khí quyển từ bắc xuống nam. Mỗi nếp gấp có kích thước lên đến 2.500 km.
Sự xáo trộn không khí trong đất liền dẫn đến sự hình thành các cơn giông ở phía tây châu Phi, sau đó cuốn ra gần Cape Verde thuộc Đại Tây Dương.
Nhà khoa học khí quyển Colin Price thuộc Đại học Tel Aviv cho biết giông bão phát triển ở miền Trung và phía đông của châu Phi vào những tháng mùa hè diễn ra rất đều đặn, "như bật ấm đun nước mỗi ngày".
Nghiên cứu của ông Price chỉ ra rằng có thể tận dụng sự hình thành những cơn giông để dự đoán cường độ của các xoáy thuận nhiệt đới bắt nguồn từ châu Phi, từ đó chuẩn bị phương án ứng phó kịp thời.
"Công thức" hình thành bão
Một nghiên cứu mới đây cho thấy 72% các cơn bão nhiệt đới ở Đại Tây Dương có liên quan đến những nếp gấp khúc khổng lồ trong bầu khí quyển tại châu Phi.
Tuy nhiên, không phải toàn bộ những luồng không khí biến dạng nói trên đều chuyển hóa thành bão. Một số luồng khí di chuyển về phía bắc, suy yếu và biến mất.
Nhiệt độ nước biển được cho là chất xúc tác trong việc hình thành bão. Sức nóng và độ ẩm bốc lên từ nước ấm cung cấp năng lượng cho gió lốc và góp phần giúp bão phát triển mạnh.
Nghiên cứu của nhà khí tượng Philip Klotzbach cho thấy nước biển càng ấm, bão càng mạnh. Ảnh: Dreams Times.
Một số chu kỳ khí hậu cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát sinh bão.
Hiện tượng La Nia và El Nio làm tăng nhiệt độ nước ở nam Thái Bình Dương, khiến gió ở Đại Tây Dương và vùng biển Caribe yếu hơn. Điều này cho phép các luồng khí biến dạng gặp nhau và tạo thành bão mà không gặp nhiều trở ngại.
Vai trò của sa mạc Sahara
Bão cát ở Sahara thổi bụi và không khí khô vào tầng giữa của khí quyển, được gọi là Tầng không khí Sahara, được chứng minh có thể ngăn chặn tiến trình của bão.
Nghiên cứu của nhà khí tượng học Jason Dunion và các đồng nghiệp cho thấy bụi từ sa mạc Sahara có thể ức chế quá trình đối lưu - nơi không khí ẩm bốc lên qua bầu khí quyển - và ngăn chặn các cơn bão phát triển.
Mặt khác, các nhà nghiên cứu từ Đại học California giải thích rằng "những cơn bão cát ở Bắc Phi ảnh hưởng đến quá trình làm nóng bầu không khí trong khu vực, từ đó thúc đẩy sự hình thành của các nếp gấp trong khí quyển". Điều này trực tiếp dẫn đến sự phát sinh bão.
Bên cạnh đó, gió khô thổi bụi từ sa mạc Sahara được cho là có thể làm thay đổi đường đi của bão khi đi qua Đại Tây Dương, như trường hợp của cơn bão Nadine kéo dài 22 ngày hồi năm 2012.
Gió lớn và bụi từ sa mạc Sahara có khả năng làm thay đổi đường đi của bão, thậm chí làm giảm quy mô và mức độ ảnh hưởng lên đất liền. Ảnh: NASA.
Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng vẫn còn nhiều điều bí ẩn về mối quan hệ giữa sa mạc Sahara và những siêu bão hoạt động cách đó hàng nghìn km.
"Vẫn còn quá nhiều điều chúng ta cần phải tìm hiểu", nhà khí tượng học Suzana J Camargo tại Đại học Columbia nói.
Biden chấm dứt ngoại giao 'Nước Mỹ trên hết' Biden đề cao quan hệ đồng minh với NATO, tuyên bố không quay lại với chính sách ngoại giao "Nước Mỹ trên hết" của người tiền nhiệm Trump. "Hôm nay tôi phát biểu với tư cách Tổng thống Mỹ vào đầu nhiệm kỳ của mình và tôi gửi đi thông điệp rõ ràng đến thế giới: Nước Mỹ đã trở lại. Liên minh...