Gửi con cho người trông trẻ, mẹ thấy bé cứ buồn ngủ suốt ngày và rụng rời khi nghe bác sĩ kết luận
Sau 3 hôm đi gửi trẻ, người mẹ nhận thấy cô con gái nhỏ 5 tháng tuổi rất cáu kỉnh, thường lăn lộn trên giường và tỏ vẻ buồn ngủ mỗi khi được đón về nhà.
Hiện nay không ít người mẹ có con nhỏ khi đã hết thời gian nghỉ thai sản, do không có người giúp đỡ đành phải thuê giúp việc để chăm sóc con mình. Giao con cho người giúp việc là việc bất đắc dĩ bởi không bà mẹ nào có thể yên tâm hoàn toàn khi con được người lạ chăm sóc, đó là chưa kể đến tình huống trẻ trở thành nạn nhân thương tâm của người trông trẻ như những vụ việc dưới đây.
Giúp việc cho bé 5 tháng tuổi uống 10 loại thuốc an thần khác nhau
Sa’adiah hành nghề y tá tự do ở Singapore từ năm 2002. Vào tháng 11/2016, cô được một người mẹ (xin được giấu tên) thuê trông giữ hai đứa trẻ: 5 tuổi và 5 tháng tuổi. Tuy nhiên, sau 3 hôm, người mẹ nhận thấy cô con gái nhỏ rất cáu kỉnh và thường lăn lộn trên giường. Bé gái không cười với mẹ dù mẹ có làm trò mà bé thích. Sau vài ngày quan sát, người mẹ này cũng rút ra được kết luận là con luôn trong trạng thái buồn ngủ mỗi khi được đón từ nhà Sa’adiah về.
Vì hoàn cảnh bắt buộc nên người mẹ này phải gửi con cho người trông trẻ chăm (Ảnh minh họa).
Bà mẹ 2 con nói: “Vài lần đầu, thấy con có vẻ buồn ngủ, tôi chỉ nghĩ có lẽ con vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ ngắn. Vì vậy, tôi không quan tâm lắm. Nhưng sau đó, tình trạng buồn ngủ của con ngày càng tồi tệ đến nỗi mắt sưng lên và phần trên của mí mắt giống như rũ xuống”.
Trong những ngày tiếp theo, mọi thứ càng tệ hại. Bé gái vứt bình sữa sang một bên khi được cho bú và dường như không xác định được vị trí âm thanh khi người mẹ đang cố gắng nói chuyện với con.
Cho đến ngày 9 tháng 12 năm 2016, người mẹ đến đón và thấy con buồn ngủ đến mức không mở nổi mắt. Không những vậy, mắt của đứa trẻ còn sưng lên và đỏ hoe, đồng thời, cô bé không thể kiểm soát được tay của mình.
Người bà liền hối thúc con gái mang cháu đến bệnh viện Bệnh viện Parkway East. Tại đây, các bác sĩ làm một số xét nghiệm và kết quả cho thấy mức glucose trong cơ thể quá thấp.
Bé gái được đưa đến bệnh viện để kiểm tra, kết quả là mức glucose trong cơ thể quá thấp (Ảnh minh họa).
“Tôi đã nói với bác sĩ rằng con tôi có vẻ rất buồn ngủ, như thể bị đánh thuốc mê. Đầu con bé ngả về phía sau như không còn sức lực. Sau khi có kết quả kiểm tra, tôi nhớ là các y tá đã phải cố gắng đút sữa cho con bằng thìa vì con tôi, thậm chí, không thể tự bú sữa được”, người mẹ đau khổ kể tiếp.
Sau 5 ngày nằm viện, bé gái được xuất viện và không bao giờ quay trở về nhà Sa’adiah nữa.
Vào cuối tháng 12 năm đó, người mẹ nhận được báo cáo từ bác sĩ. Hóa ra, con gái 5 tháng tuổi của chị đã bị người ta cho uống 10 loại thuốc khác nhau. Bao gồm: Alprazolam, Orphenadrine, Zolpidem, Oxazepam, Diazepam, và một số loại thuốc Benzodiazepine. Đây đều là những loại thuốc an thần dành cho các bệnh giãn cơ, cai rượu hoặc co thắt cơ bắp.
Video đang HOT
Đồng thời, cũng tại thời điểm đó, người mẹ này tình cờ đọc được một bài đăng trên Facebook về một người trông trẻ bị tình nghi là đánh thuốc mê trẻ em. Chị liền liên lạc với bà mẹ này. Bất ngờ thay, đứa trẻ 11 tháng tuổi của bà mẹ thứ 2 cũng đã từng gửi ở nhà Sa’adiah. Không còn nghi ngờ gì nữa, ngay lập tức, họ đệ đơn kiện lên cảnh sát.
Hôm 18/2 vừa qua, tòa án ở Singapore đã mở phiên tòa xét xử vụ án. Nếu bị kết tội lưu trữ chất độc và cố ý gây thương tích, Sa’adiah có thể bị bỏ tù tới 10 năm và bị phạt tiền.
Giúp việc nhúng tay bé gái 16 tháng tuổi vào trong nồi nước sôi khiến bé bị bỏng nặng
Những câu chuyện thương tâm khi trẻ là nạn nhân của giúp việc không phải là chuyện hiếm. Ngày 15/1 vừa qua, cảnh sát Singapore đã ra quyết định bắt giữ một người phụ nữ (30 tuổi) người Myanmar, đang làm giúp việc cho một gia đình ở Singapore với tội danh cố ý gây thương tích cho người khác, sau khi cô ấy cố tình nhúng tay của bé gái 16 tháng tuổi mà mình đang chăm sóc vào trong nồi nước sôi.
Chị Amy Low (40 tuổi) kể, sự việc này xảy ra vào khoảng 5 giờ chiều ngày 14/1. Khi đó, vợ chồng chị đi làm chưa về, và để hai con gái 8 tuổi và 16 tháng tuổi ở nhà với người giúp việc. Khoảng 5 giờ 20 phút, chồng chị nhận được điện thoại từ con gái lớn nói rằng em bị bỏng. Hai vợ chồng chị Amy vội vã về nhà đưa con đến một phòng khám gần nhà. Tại đây, các bác sĩ bảo họ hãy nhanh chóng đưa đứa trẻ đến bệnh viện lớn.
Những hình ảnh khiến người lớn không khỏi xót xa.
Khi được hỏi nguyên nhân của sự việc này, nữ giúp việc nói rằng cô đã vừa bế bé vừa nấu ăn nên đứa trẻ đã vô tình cho tay vào nồi nước sôi.
Tuy nhiên, sau khi kiểm tra camera, chị Amy choáng váng khi biết sự thật không phải như vậy. “Toàn thân tôi run rẩy khi xem lại camera. Tôi không thể tin vào những gì mình đang nhìn thấy. Cô ấy đã nhúng tay con gái tôi vào nồi.
Kể từ khi bị bỏng, con gái tôi khóc không ngừng. Con bé còn quá nhỏ để nói cho chúng tôi biết mình khóc vì sợ hãi hay đau đớn”, bà mẹ 2 con nói.
Ngay khi biết được sự dối trá của người giúp việc, chị Amy đã nhanh chóng báo cảnh sát. Tại sở cảnh sát, người giúp việc khai rằng do cô xin về nhà mà chị Amy không cho nên đã làm như vậy. Hiện tại, cảnh sát vẫn đang điều tra để làm rõ sự việc.
Những câu chuyện trên như một chuông cảnh báo các cha mẹ khác xin đừng quá tin tưởng mà giao con hoàn toàn cho người giúp việc. Trong trường hợp bất khả kháng, không thể tự tay hoặc nhờ người thân chăm sóc con được, cha mẹ hãy tìm người giúp việc thông qua lời giới thiệu của bạn bè, người thân hoặc qua một công ty có uy tín lâu đời để hạn chế những sự việc đau lòng tương tự xảy ra.
Theo Trí Thức Trẻ
Thảm kịch Thalidomide và sự ra đời của đạo luật về an toàn và quản lý thử nghiệm thuốc
Bi kịch sau khi loại thuốc có tên Thalidomide được tung ra thị trường và được sử dụng thời gian dài chính là chất xúc tác đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống giám sát và phê duyệt thuốc nghiêm ngặt tại Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA).
"Thần dược" của giấc ngủ
Năm 1956, Thalidomide - một dẫn xuất của acid glutamic do Công ty dược phẩm Chemie Grunenthal GmbH của Đức sản xuất - được tung ra thị trường với tác dụng được kê là một loại thuốc an thần. Vốn chuyên về thuốc kháng sinh, Thalidomide được Chemie Grunenthal GmbH phát triển như một sản phẩm tiên phong của công ty trong quá trình mở rộng phạm vi sản phẩm. Đó là một loại thuốc chống co giật nhưng khiến người dùng buồn ngủ và thư giãn nên được chỉ định để an thần.
Khi được cấp phép để bán ở Đức và các nước khác vào tháng 7/1956, Thalidomide được đưa vào danh sách thuốc bán không cần kê đơn bởi nhà sản xuất khẳng định sản phẩm của họ an toàn với mọi người, kể cả phụ nữ đang nuôi con, trẻ nhỏ và phụ nữ đang mang thai.
Tuyên bố này được đưa ra dựa trên báo cáo cho hay, trong giai đoạn cấp bằng sáng chế và phê duyệt, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm thuốc trên động vật và nhận thấy liều lượng thalidomide không đủ cao để làm chết một con chuột.
Trong thời kỳ hậu chiến tranh, khi chứng mất ngủ phổ biến dẫn tới sự hình thành một thế giới gắn liền với thuốc an thần và thuốc ngủ, nhu cầu về một loại thuốc như Thalidomide là rất lớn.
Theo một số ước tính, ở thời kỳ này, cứ 7 người Mỹ thì có 1 người thường xuyên sử dụng thuốc an thần. Nhu cầu về thuốc này thậm chí còn cao hơn ở một số thị trường châu Âu. Chính vì vậy, sự khẳng định về mức độ an toàn của Thalidomide càng khiến cho thuốc trở nên hấp dẫn hơn. Đến năm 1960, Thalidomide đã được bán ở 46 quốc gia, với doanh số khổng lồ.
Trong khoảng thời gian này, bác sĩ sản khoa người Australia William McBride đã phát hiện ra rằng loại thuốc này cũng làm giảm bớt tình trạng ốm nghén rất hiệu quả. Do đó, ông bắt đầu khuyến nghị sử dụng thuốc để giảm tình trạng buồn nôn - công dụng không được liệt kê trong danh mục điều trị của thuốc - cho các bệnh nhân đang mang thai ở giai đoạn đầu của thai kỳ.
Ở thời kỳ này và ngay cả hiện nay, việc kê đơn một thuốc để điều trị triệu chứng không có trong các tác dụng chỉ định đã được cơ quan quản lý dược cấp phép vẫn là một thói quen phổ biến ở nhiều nước, trong đó có cả Mỹ. Trong nhiều trường hợp, việc kê đơn thuốc để chữa các vấn đề không có trong chỉ định như vậy rất hiệu quả.
Xu hướng sử dụng Thalidomide cho phụ nữ mới mang bầu nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới. Đến cuối những năm 1950, nó trở thành một trong những cái tên không thể thiếu trong danh mục các sản phẩm chăm sóc sức khỏe bà bầu, với công dụng giảm triệu chứng ốm nghén giai đoạn đầu thai kỳ.
Rất nhiều bà bầu đã tin dùng sản phẩm này, bao gồm cả ở châu Âu, Canada, Australia, Nam Mỹ, châu Á. Nhiều người khi đó xem đây như một thần dược mà không biết rằng tai họa thực sự đã nảy sinh.
Những em bé dị tật
Từ "phocomelia" có nghĩa là khuyết tật ở chi. Từ này được dùng để mô tả một tình trạng cực kỳ hiếm gặp, khi những đứa trẻ được sinh ra với các chi trông giống như chân chèo. Ở những trẻ này, xương cánh tay của chúng không phát triển, nhưng ngón tay đôi khi mọc ra từ vai.
Trong một số trường hợp, chân chúng cũng không phát triển. Nhà giải phẫu học người Pháp Étienne Geoffroy Saint-Hilaire đã đặt ra từ này vào năm 1836 nhưng sau đó, từ này hiếm khi được sử dụng. Đến sau khi Thalidomide ra đời, "phocomelia" đột nhiên trở nên quá quen thuộc sau 120 năm bị quên lãng.
Cụ thể, chỉ trong vài năm kể từ khi Thalidomide được sử dụng rộng rãi ở châu Âu, Australia, Nhật Bản và những nước khác, những bất thường ở những người sử dụng thuốc đã được ghi nhận. Thống kê cho thấy, chỉ trong vài năm, tại Tây Đức - nơi loại Thalidomide được ra mắt đầu tiên, ước tính đã có từ 5.000 đến 7.000 trẻ được sinh ra với chân và cánh tay bị dị tật nghiêm trọng.
Tại Anh, khoảng 2.000 trường hợp trẻ sơ sinh bị biến dị. Những trẻ này thường không có tay hoặc chân. Một số ít có tay, chân nhưng cực kỳ ngắn với những ngón và đốt không rõ ràng, đôi khi bị dính lại như mái chèo.
Những em bé bị dị tật do Thalidomide.
Năm 1960, các bác sĩ đã bắt đầu lo ngại về các tác dụng phụ có thể xảy ra ở những người đã sử dụng Thalidomide khi một số bệnh nhân được phát hiện đã bị tổn thương thần kinh ở tay chân sau khi sử dụng thuốc trong thời gian dài. Công ty Grunenthal khi đó đã không cung cấp được bằng chứng lâm sàng thuyết phục để bác bỏ những lo ngại này.
Đến năm 1961, bác sỹ McBride nhận thấy sự liên quan rõ ràng giữa cái gọi là hợp chất vô hại Thalidomide với những dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở những đứa trẻ mà ông đã đỡ đẻ. Bởi, những trẻ bị dị tật thường là những em bé có mẹ đã dùng Thalidomide trong giai đoạn đầu của thai kỳ.
Ông dần nhận ra dường như loại thuốc trên đã cản trở sự phát triển bình thường của thai nhi. Bác sỹ người Đức Widukind Lenz cùng lúc cũng công bố kết quả nghiên cứu về mối liên hệ giữa Thalidomide với các dị tật ở thai nhi.
Ngoài dị tật giảm chi, các tác dụng khác sau đó được quy cho là do Thalidomide bao gồm bệnh tim bẩm sinh, dị tật ở tai trong và ngoài, khiếm thính, bất thường ở mắt, khiếm thị, hở hàm ếch. Trên thực tế, các thử nghiệm trên động vật đối với thuốc Thalidomide mà Chemie Grunenthal GmbH cũng không bao gồm các thử nghiệm để xem xét tác dụng phụ của thuốc trong thai kỳ.
Chưa dừng lại ở đó, những nạn nhân sống sót cũng mắc các bệnh như bệnh mạch vành, hạn chế cử động khớp, thoái hóa khớp, biến dạng cột sống và khớp xương. Thalidomide cũng được báo cáo là lý do khiến hàng ngàn phụ nữ bị sảy thai vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960.
Từ năm 1958, tháng 11/1961, Chemie Gruenenthal bắt đầu thu hồi Thalidomide ở Đức và hầu hết các nước. Đến năm 1962, loại thuốc này đã biến mất khỏi các kệ bán hàng và trở thành cái tên cấm kỵ trong ngành y tế. Song, ở một số nước có điều kiện chăm sóc sức khỏe không tốt, người dân vẫn tiếp tục sử dụng thalidomide trong một vài năm sau đó. Ở những nơi này, tỉ lệ trẻ sơ sinh bị mắc dị tật tiếp tục được ghi nhận ở mức cao.
Đến lúc này, hậu quả mà Thalidomide để lại là vô cùng khủng khiếp và không thể đảo ngược. Khoảng 8.000 đến 12.000 trường hợp dị tật bẩm sinh, còn được gọi là những "em bé chân chèo". Những nạn nhân được ghi nhận ở khoảng 50 nước trên thế giới.
Những em bé bị dị tật do Thalidomide.
Thắt chặt các quy định về thử nghiệm thuốc
Tại Mỹ, tháng 7/1962, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là ông John F. Kennedy và báo chí nước này bắt đầu ca ngợi anh hùng của họ - nữ thanh tra FDA Frances Kelsey, người đã bất chấp áp lực từ công ty dược phẩm và các giám sát viên của FDA để ngăn chặn việc Thalidomide được phê duyệt ở Mỹ.
Theo lời bà Kelsey, bà ngăn cản việc phê duyệt Thalidomide lưu hành ở Mỹ do cảm thấy hồ sơ về thalidomide không cung cấp đầy đủ và toàn diện những dữ liệu về tính an toàn và hiệu quả của thuốc. Trong đó, nữ thanh tra băn khoăn nhất về việc thiếu dữ liệu cho thấy liệu thuốc có thể truyền qua nhau thai vào thai nhi hay không. Bên cạnh đó, bà Kelsey cũng lo ngại về việc chưa có bất kỳ kết quả nào từ các thử nghiệm lâm sàng do Mỹ tiến hành đối với loại thuốc này.
Kelsey cũng nhận thấy rằng ngay cả khi những dữ liệu thử nghiệm đã được công bố có thể không hoàn toàn đáng tin cậy. Vào thời điểm đó, các thử nghiệm lâm sàng không bắt buộc phải có sự chấp thuận của FDA và cũng không chịu sự giám sát.
Thảm kịch xung quanh Thalidomide và sự cương quyết của bà Kelsey trong việc từ chối phê duyệt loại thuốc này đã giúp thúc đẩy những thay đổi sâu sắc trong FDA. Bằng cách thông qua Đạo luật dược phẩm sửa đổi Kefauver-Harris năm 1962, các nhà lập pháp Mỹ đã bắt buộc tất cả các loại thuốc phải trải qua thử nghiệm tiền lâm sàng để chứng minh tính an toàn và hiệu quả của chúng.
Luật cũng bao gồm các quy định nhằm thắt chặt quy trình giám sát và phê duyệt thuốc được bán ở Mỹ, trong đó có việc yêu cầu các nhà sản xuất chứng minh rằng các loại thuốc của họ an toàn và hiệu quả trước khi đưa ra thị trường. Cũng theo các quy định được nêu trong luật, quá trính để phê duyệt thuốc có thể mất từ 8 đến 12 năm, bao gồm cả các đến thử nghiệm trên động vật và các thử nghiệm lâm sàng ở người được kiểm soát chặt chẽ.
Minh Ngọc / Pháp luật Bốn phương
Theo baophapluat
Sử dụng thuốc giảm đau, thuốc cảm lạnh khi lái xe có thể bị phạt và cấm lái xe một năm Người dân nước Anh có thể phải đối mặt với án phạt nặng và thậm chí là cấm lái xe nếu sử dụng thuốc để giảm đau hay điều trị cơn cảm lạnh khó chịu trong khi lái xe. Người dân nước Anh có thể phải đối mặt với án phạt nặng và thậm chí là cấm lái xe sau khi uống thuốc...