Gọi vốn không khó, cái khó là phải làm ra để trả
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa được định hình, đặt ra đòi hỏi các doanh nghiệp phải khắt khe hơn với phương án trả nợ trước khi tính việc tận dụng dòng vốn dễ vay này.
Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến tháng 6/2020.
Khát vốn, doanh nghiệp đẩy mạnh phát hành trái phiếu
“Lượng TPDN các tổ chức phi tín dụng và cá nhân nắm giữ đã tăng khoảng 153% trong năm 2019 và tăng khoảng 25% trong 6 tháng đầu năm 2020″, đây là thông tin được Trung tâm Phân tích và tư vấn đầu tư, Công ty Chứng khoán SSI (SSI Research) đưa ra tại báo cáo “Tác động của kênh trái phiếu doanh nghiệp đến lãi suất tiền gửi” mới đây.
SSI Research cho biết, trong 6 tháng qua, tổng lượng TPDN phát hành ước tính ở mức 159.000 tỷ đồng, tăng 50% so với 6 tháng đầu năm 2019. Thực tế, con số này có thể còn cao hơn do các thông tin phát hành vẫn đang được công bố.
Tổng lượng TPDN lưu hành ước khoảng 783.000 tỷ đồng, tương đương 12,8% GDP lũy kế 12 tháng gần nhất. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến tháng 6/2020.
Không chỉ tăng trưởng mạnh mẽ trên thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp TPDN cũng rất sôi động.
Cụ thể, lượng TPDN niêm yết trên Sở GDCK TP.HCM (HOSE) đã tăng từ 14.200 tỷ đồng (năm 2017) lên gần 36.000 tỷ đồng (tại ngày 30/6/2020), tương ứng tỷ lệ tăng trưởng bình quân 45%/năm; thanh khoản thị trường cải thiện với giá trị giao dịch tăng trung bình 80%/năm từ 2017 đến nay, nhưng hiện vẫn ở mức khá khiêm tốn, bình quân khoảng 3.200 tỷ đồng/tháng.
Giao dịch qua các đại lý (công ty chứng khoán, ngân hàng) vẫn chiếm đa số. Không chỉ làm trung gian phân phối, các quỹ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp gia tăng đáng kể số mở mới và cả tài sản quản lý.
Trong đó, đáng chú ý là xu hướng nhà đầu tư cá nhân tiếp cận ngày càng nhiều với kênh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp địa ốc.
“Sự tăng trưởng mạnh mẽ về mặt quy mô, tính thanh khoản và khả năng tiếp cận đã khiến TPDN từ chỗ là kênh đầu tư dành riêng cho tổ chức, đã dần trở thành một lựa chọn đầu tư mới cho khách hàng cá nhân”, SSI Research nhấn mạnh.
Báo cáo thường niên của Công ty Chứng khoán Kỹ thương (TCBS) cho biết, TCBS chiếm 82,4% thị phần giao dịch TPDN trên HOSE, đã phân phối (bán lẻ) cho nhà đầu tư cá nhân hơn 30.000 tỷ đồng TPDN trong năm 2019, tăng 47% so với năm 2018.
Video đang HOT
Ghi nhận của Báo Đầu tư Chứng khoán cho thấy, nếu loại trừ trái phiếu ngân hàng, lãi suất bình quân TPDN phát hành sơ cấp dao động từ 10,1 – 11,2%/năm với kỳ hạn tăng dần từ 12 tháng đến 5 năm.
Khảo sát mức lãi suất của các công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại, lãi suất TPDN trên thị trường thứ cấp thường thấp hơn từ 2-2,5%/năm so với thị trường sơ cấp; nằm trong khoảng 7,5-10,5%/năm.
So với lãi suất tiền gửi cạnh tranh nhất, lợi tức TPDN cao hơn từ 0,8-1,7%/năm. Bản thân mức độ dao động của lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng thương mại cũng rất rộng, khi các ngân hàng thương mại nhỏ huy động với lãi suất cao hơn nhóm 4 ngân hàng thương mại nhà nước từ 1-2%/năm.
Bởi vậy, nếu so với lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại lớn, lợi tức TPDN có thể cao hơn từ 1,8-4%/năm tùy từng kỳ hạn.
Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) từng nhấn mạnh, các doanh nghiệp bất động sản cần coi kênh phát hành trái phiếu, cổ phiếu là kênh huy động vốn quan trọng, giúp giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Điều này không chỉ phù hợp trong bối cảnh tín dụng bất động sản đang được kiểm soát chặt chẽ như hiện nay, mà cả trong tương lai, theo kinh nghiệm phát triển của các thị trường đi trước.
Phát hành TPDN hay cổ phần còn giúp các công ty bất động sản có thể mở rộng tìm kiếm các đối tác ngoại có tiềm lực, từ đó vừa có được dòng vốn tốt, vừa học tập kinh nghiệm quản trị, phát triển sản phẩm…
Quan trọng là đảm bảo khả năng thanh toán
Để có vốn kinh doanh trong bối cảnh nhiều ngân hàng hạn chế dòng vốn tín dụng chảy vào bất động sản, các doanh nghiệp địa ốc tìm cách hút vốn mạnh qua phát hành trái phiếu.
Trong khi đó, quy định pháp luật có nhiều thay đổi mang tính cởi trói cho hoạt động huy động vốn bằng TPDN, giúp hoạt động này nở rộ.
Tuy nhiên, việc mở cơ chế mở cho việc gọi vốn qua trái phiếu đang khiến thị trường này đối mặt với nhiều rủi ro khi xuất hiện hiện tượng doanh nghiệp liên tục phát hành trái phiếu mà không gắn với nhu cầu huy động vốn cho sản xuất – kinh doanh, doanh nghiệp phát hành vượt quá quy mô vốn chủ sở hữu…, tiềm ẩn rủi ro lớn cho cả doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư mua trái phiếu.
Đó là chưa kể việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu với lãi suất quá cao cũng gây nguy cơ phá vỡ mặt bằng lãi suất trên thị trường.
Thực tế, chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, Bộ Tài chính đã liên tiếp “rút thẻ vàng” đối với hoạt động phát hành trái phiếu của nhiều doanh nghiệp.
Thậm chí trong Luật Doanh nghiệp mới được Quốc hội thông qua, đề xuất chỉ cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia thị trường TPDN của cơ quan này đã trở thành quy định chính thức.
Nỗi lo này xuất phát từ sự gia tăng đầu tư nhanh chóng của nhóm nhà đầu tư cá nhân, gồm cả nhà đầu tư không chuyên nghiệp, trong khi chưa tiếp cận đầy đủ thông tin về đặc điểm của trái phiếu, mục đích phát hành, tình hình tài chính, khả năng trả nợ của doanh nghiệp phát hành…, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho chính họ và thị trường.
Do đó, cần thiết phải có quy định về phạm vi giao dịch TPDN riêng lẻ để đảm bảo hạn chế rủi ro.
Kinh nghiệm từ quốc tế là bài học đáng để Việt Nam tham khảo. Thống kê cho thấy, các vụ vỡ nợ trái phiếu tại Trung Quốc đạt giá trị 21 tỷ USD trong năm 2019, đa phần số này là trái phiếu tại thị trường nội địa được phát hành bằng nhân dân tệ và do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ.
Theo đại diện CTCP Phát triển bất động sản Phát Đạt (mã PDR), thị trường trái phiếu được định hướng phát triển thành một trong những kênh huy động vốn cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế, thay thế dần cho kênh tín dụng.
Các doanh nghiệp niêm yết lựa chọn kênh huy động từ trái phiếu như một công cụ đắc lực để gia tăng vốn đầu tư và phát triển.
Không phủ nhận vẫn còn những “hạt sạn” trong việc phát hành trái phiếu, nhưng đó là với những doanh nghiệp chưa đủ năng lực tài chính, còn về cơ bản, với những doanh nghiệp có nền tảng tài chính vững, minh bạch trong quản trị, điều hành…, việc chậm trễ thanh toán trái phiếu thường không gặp khó khăn gì.
Theo TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính, dưới góc nhìn của cơ quan quản lý, điều quan trọng là đảm bảo an toàn hệ thống. Còn với doanh nghiệp, do khát vốn nên càng huy động được nhiều thì càng tốt, nhất là khi phát hành trái phiếu có nhiều ưu điểm, đặc biệt là không cần tài sản đảm bảo và có thể sử dụng ngay nguồn vốn.
“Các chủ đầu tư cần có 30% vốn để thực hiện các dự án, còn lại 70% có thể huy động từ người mua, nên lượng trái phiếu huy động có thể gấp 3 lần nhu cầu. Tuy nhiên, việc huy động từ trái phiếu nên ở mức phù hợp với khả năng kinh doanh và phải tính đến yếu tố an toàn, đặc biệt trong trường hợp dự án bị đình trệ, phá sản. Để đảm bảo sự thành công, các công ty bất động sản cần phải có thực lực về tài chính, chứ không chỉ là kỹ năng lập dự án”, ông Hiển nói.
Trái phiếu doanh nghiệp: Bẫy tín dụng hay kênh đầu tư
Tại hội thảo công bố báo cáo vĩ mô quý II/2020 của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), đã có nhiều quan điểm trái chiều về trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu doanh nghiệp: Không quản trị tốt sẽ thành bẫy tín dụng - Ảnh minh hoạ
Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chưa phải là một phương thức tốt để giải quyết các vấn đề khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Ông Hiếu bày tỏ sự lo ngại khi rất nhiều nhà đầu tư cá nhân chỉ nhìn vào lãi suất để mua trái phiếu điều này là hết sức nguy hiểm.
Ông Hiếu đánh giá: "Lãi suất càng ngày càng giảm nhưng nhiều doanh nghiệp hiện vẫn đang phát hành trái phiếu với mức lợi nhuận từ 11 - 15% nhưng đôi khi đây là một cái bẫy tín dụng. Nhiều người đầu tư không có khả năng phân tích báo cáo tài chính, báo cáo tín dụng xem tình hình tài chính của doanh nghiệp đang phát hành như thế nào. Đấy là tôi chưa kể đến khả năng những báo cáo tài chính này không phải là báo cáo có kiểm toán độc lập".
Rất nhiều trái phiếu hiện nay được các ngân hàng hỗ trợ phát hành điều này khiến nhiều nhà đầu tư nhầm tưởng trái phiếu đó được ngân hàng bảo lãnh. Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Các ngân hàng chỉ bảo lãnh thanh toán do đó nhà đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp cần hết sức lưu ý, ông Hiếu chia sẻ thêm.
Cũng theo quan điểm của ông Hiếu, TPDN đang được phát hành rầm rộ nhưng cần được quy định lại trong luật 1 cách chặt chẽ hơn nữa tránh đẩy hết rủi ro về phía nhà đầu tư và rủi ro cho cả nền kinh tế.
TS. Nguyễn Trí Hiếu phát biểu tại hội thảo
Không đồng quan điểm về đánh giá này, PGS, TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Trưởng khoa Tài chính, Đại học Kinh tế TP.HCM cho rằng: "Bản chất TPDN không có lỗi, không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân cố hữu vẫn là ở thị trường BĐS, đây là nơi nhiều doanh nghiệp đang huy động trái phiếu với lãi xuất cao. Với tâm lý "Mua vàng thì lỗ - Mua thổ thì lời" luôn khiến BĐS là hố đen hút dòng tín dụng vào đó và khi khả năng cho vay của ngân hàng thương mại bị siết chặt thì TPDN trở thành kênh tín dụng để xả".
Nếu anh chị để ý, kênh TPDN đã được nói đến nhiều nhưng chỉ "nở rộ" từ những năm 2018 - 2019 khi mà Ngân hàng Nhà nước thắt chặt tín dụng cho kênh đầu tư BĐS thì tiền được xả vào TPDN. Nhưng việc cần làm hiện nay là Bộ Tài chính cần căn chỉnh lại, làm cho kênh này quy củ, bài bản và lành mạnh hơn. Nếu thực hiện tốt TPDN vẫn sẽ là kênh đầu tư tốt trong thời gian tới, ông Bảo cho biết thêm.
Ông Bảo nhấn mạnh: "Tôi cho rằng không nên truyền bá tin tức tiêu cực như việc doanh nghiệp chạy đua lãi suất, kênh trái phiếu rất nguy hiểm hay nhà đầu tư hãy cẩn thận. Chúng ta dặn dò hay can gián là tốt nhưng nếu nói quá thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Ta phải phát triển trái phiếu doanh nghiệp, nếu không muốn nền kinh tế tiếp tục lệ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng".
Một điểm nữa ông Bảo cho rằng nên lưu ý ở kênh TPDN là cần phát triển thị trường thứ cấp để trái phiếu doanh nghiệp có thanh khoản cao. Điều này sẽ giúp lợi nhuận của đầu tư trái phiếu không phải chỉ đến từ lãi suất phát hành mà còn đến từ chênh lệch giá mua bán trên thị trường thứ cấp. Nếu làm tốt điều này nhà đầu tư chỉ cần nhìn vào chất lượng trái phiếu để đầu tư.
PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu tại buổi toạ đàm của VEPR
Đồng quan điểm về vấn đề này, TS. TS. Nguyễn Đức Thành - Cố vấn trưởng, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách nhận xét: "Tôi nghĩ rằng khi thị trường trái phiếu phát triển tương tự như thị trường cổ phiếu sẽ giúp thông tin minh bạch hơn, giúp nhà đầu tư. Quan trọng hơn, điều này cũng có lợi cho những người cần vốn ở đây là doanh nghiệp phát hành trái phiếu".
Theo dữ liệu công bố của các doanh nghiệp và HNX, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành từ đầu năm đến nay ước tính ở mức 159.000 tỉ đồng, tăng 50% so với 6 tháng đầu năm 2019. Con số tăng trưởng quy mô phát hành 6 tháng năm 2020 so với cùng kỳ có thể sẽ còn cao hơn do các thông tin phát hành vẫn đang được công bố.
Tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp lưu hành ước khoảng 783.000 tỉ đồng, tương đương 12,8% GDP lũy kế 12 tháng gần nhất. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng bình quân 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến 6 tháng năm 2020.
Bổ sung thêm những quan điểm kể trên TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Giám đốc Viện đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho biết thêm: "Mới đây chính phủ đã ban hành Nghị định 81/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đây là điều phải làm vì thị trường này đang tăng trưởng khá nóng trên 50% trong vòng hơn 2 năm vừa qua. Để tăng như vậy nhà đầu tư nhỏ rất thiệt thòi".
Nghị định 81 thực sự cần thiết khi đã căn chỉnh lại việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, điểm quan trọng nhất ở đây là doanh nghiệp phải thông qua tư vấn phát hành chính là các công ty chứng khoán. Ngoà ra, cần đồng bộ hoá Nghị định này và Luật Chứng khoán để đạt hiệu quả tốt nhất ông Lực đánh giá.
Công cụ trái phiếu chính phủ hỗ trợ giảm lãi suất Việc giảm lãi suất được nhắc đến nhiều năm, đặc biệt là thời kỳ dịch bệnh Covid-19. Nhưng giảm lãi suất đến mức nào đúng với kỳ vọng của Chính phủ và mong đợi của doanh nghiệp (DN), là câu chuyện đáng để bàn. NHNN đã làm tròn trách nhiệm? Khi nói đến giảm lãi suất để hỗ trợ hay thúc đẩy nền...