Gói phục hồi kinh tế hiệu quả, Việt Nam sẽ lấy lại tốc độ tăng trưởng cao
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng Đề án chương trình phục hồi và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023.
Đây là chương trình phục hồi kinh tế sẽ có quy mô lớn nhất từ trước đến nay. Dự kiến, vào tháng 12 tới, tại cuộc họp chuyên đề, Quốc hội sẽ xem xét nhiều nội dung; trong đó, có việc xem xét thông qua gói hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty Youngbag ViiNa khu Công nghiệp Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ảnh minh họa: TTXVN
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, nếu đề án phục hồi và phát triển kinh tế này được thực hiện nhanh, hiệu quả thì Việt Nam có thể lấy lại tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2022 và đạt được mức tăng trưởng cao hơn trong năm 2023.
Gói hỗ trợ lớn với thời gian phù hợp
Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thành dự thảo Đề án Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023 trình Chính phủ cho ý kiến thông qua để triển khai các bước tiếp theo; trình các cấp có thẩm quyền, đó là trình Bộ Chính trị cho ý kiến về chủ trương, đường hướng và trình Quốc hội để xem xét thông qua các giải pháp, cơ chế chính sách. Đặc biệt, là các giải pháp, chính sách liên quan đến tài khóa và tiền tệ thuộc đến thẩm quyền của Quốc hội.
Hiện, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan, nhất là các cơ quan trong tổ điều hành vĩ mô như: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng Chính phủ để hoàn thiện báo cáo có chất lượng để trình các cấp có thẩm quyền.
Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho hay, có 5 nhóm chính sách được đề xuất tại chương trình. Đó là, nhóm phòng chống dịch bệnh và công tác y tế; trong đó, đề cập tới việc cung ứng vaccine, biện pháp phòng chống dịch bệnh, xét nghiệm, cách ly, điều trị… Tất cả giải pháp này đều cần tới kinh phí và đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện các gói giải pháp khác.
Nhóm thứ hai là giải pháp an sinh xã hội thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước là vừa phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo đời sống an sinh xã hội. Nhóm giải pháp này được nghiên cứu, mở rộng thêm nhiều đối tượng bị ảnh hưởng như công nhân trong các khu công nghiệp với các giải pháp phát triển nhà ở xã hội và nhà ở công nhân; cho vay ưu đãi với đối tượng như học sinh sinh viên, cơ sở giáo dục mầm non…
Nhóm 3 là giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, tập trung chủ yếu về giải pháp về tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế, phí, lệ phí đã được thực hiện trong thời gian qua sẽ được nghiên cứu rà soát và tiếp tục thực hiện. Đồng thời, triển khai chính sách tiền tệ, cho vay ưu đãi thông qua công cụ hỗ trợ lãi suất, có nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp phục hồi.
Video đang HOT
Nhóm 4 đẩy mạnh đầu tư công. Nhóm này có ý nghĩa kép là vừa kích thích chi tiêu đầu tư công tức thời và có ý nghĩa lâu dài là tạo ra kết cấu hạ tầng hiệu quả cho nền kinh tế. Nhóm 5 là giải pháp về quản lý điều hành, bảo đảm cân đối vĩ mô, kiểm soát lạm phát, kiểm soát rủi ro.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, khi nghiên cứu tình hình trong và ngoài nước, Bộ nhận định cần có gói hỗ trợ lớn với thời gian phù hợp; đảm bảo cân đối vĩ mô, có hỗ trợ cả phía cung và cầu. Đồng thời, gắn chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; phù hợp với kế hoạch tài chính công, tái cơ cấu nền kinh tế, tính cả dài hạn như xuất khẩu, tiêu dùng nội địa, đảm bảo khả thi, hỗ trợ trọng tâm, trọng điểm…
“Theo đó, chính sách hỗ trợ sẽ tập trung cho các đối tượng là người dân, doanh nghiệp, hợp tác xã, ngành lĩnh vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch, những ngành có tiềm năng phục hồi nhanh, đóng góp lớn cho nền kinh tế. Dự tính thời gian thực hiện hỗ trợ trong 2 năm 2022 – 2023 và nếu thông qua ngay vào kỳ họp cuối năm sẽ thực hiện ngay vào đầu năm 2022″, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng bày tỏ.
Cần tính toán khoa học
Mặc dù đến nay, quy mô gói hỗ trợ phục hồi kinh tế vẫn chưa được quyết định nhưng được dự báo là quy mô hỗ trợ lớn nhất từ trước tới nay. Theo các chuyên gia, để đảm bảo hiệu quả, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế này cần được tính toán sát hơn, khoa học và đúng bản chất hơn.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 đạt từ 6-6,5%, Việt Nam cần có gói hỗ trợ phục hồi kinh tế đủ lớn. TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương (CIEM) chỉ ra, nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ xảy ra năm 1997-1998, tăng trưởng GDP của Việt Nam bị tác động giảm xuống mức sâu 4,77% (năm 1999), đến khi bật trở lại chỉ lên được 6,79%, tức tăng trên 2%.
Cuộc khủng hoảng thứ 2 là giai đoạn 2008-2011, tăng trưởng GDP lùi về mức 5,2% và sau đó tăng lên 6,4%, tức là tăng trên 1%. Như vậy, để hồi phục kinh tế, Việt Nam khó có bước nhảy vọt mà phải mất nhiều năm. Trong khi đó, mức tăng trưởng GDP đã xuống rất sâu vào năm 2020 là 2,91% và dự kiến năm 2021 chỉ khoảng 2%. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 lên từ 6-6,5% là bước nhảy vọt 4% trên mức “nền” thấp của năm 2021. Vì vậy, để tăng trưởng đột phá, gói hỗ trợ cũng phải ở mức đột phá.
Nhìn ra thế giới, các nước, đặc biệt là các nước phát triển đã chi ra mức hỗ trợ từ 20-40% GDP. Theo TS. Nguyễn Đình Cung, các nước không chỉ tăng chi tiêu cho y tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, còn hỗ trợ cả thu nhập của người dân và doanh nghiệp. Do đó, người dân mất việc làm, giảm tiền lương nhưng không giảm thu nhập. Vì thế, khi hết giãn cách xã hội, cuộc sống trở lại bình thường, nhu cầu chi tiêu của người dân tăng vọt. Từ đó, tăng trưởng kinh tế cũng bật lên rất nhanh và Mỹ là một điển hình.
Còn chuyên gia kinh tế, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, không thể đưa ra một chương trình phục hồi tốt nếu như không biết rõ thực trạng của nó. Do vậy, phải có một đánh giá đầy đủ hơn, chính xác hơn về thực trạng, nhất là về tác động của dịch vừa qua đối với doanh nghiệp, với lao động, việc làm đối với một số lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Để chương trình phục hồi này khả thi cần xác định rõ tính mục tiêu và đối tượng để phục hồi, hỗ trợ.
Khảo sát gần đây của VCCI cho thấy, có xấp xỉ 94% doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch; khoảng 71% doanh nghiệp tiếp tục giảm doanh thu so với năm trước đó.
Phó Chủ tịch VCCI, ông Hoàng Quang Phòng cho hay, ngày 11/10/2021, Nghị quyết số 128/NQ-CP do Chính phủ ban hành về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 chính thức có hiệu lực và được các doanh nghiệp đánh giá là giải pháp kịp thời, giúp “cởi trói” tinh thần cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quá trình phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện bình thường mới chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian. Vì vậy, các doanh nghiệp mong mỏi các cơ chế, chính sách hỗ trợ cũng được ổn định và có thời hạn phù hợp.
“Các doanh nghiệp kỳ vọng sẽ sớm có một chương trình tổng thể phục hồi kinh tế được thiết kế khoa học, sát hợp với nhu cầu, điều kiện của các doanh nghiệp; có tính khả thi cao, làm cơ sở để các địa phương, các ngành và các doanh nghiệp xây dựng phương án phục hồi”, ông Hoàng Quang Phòng đề xuất.
Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, cần có đánh giá tác động đối với những cán cân lớn của nền kinh tế như: gói hỗ trợ sẽ tạo được việc làm và góp phần phục hồi tăng trưởng ra sao, nghĩa vụ trả nợ như thế nào… phải tính toán rất cụ thể.
Đồng tình với quan điểm trên, chuyên gia kinh tế, TS. Võ Trí Thành cho rằng, trước hết, chương trình phục hồi quy mô phải đủ lớn, diện bao phủ phải đủ rộng. Đồng thời, quan tâm, tập trung vào một số lĩnh vực trọng điểm. Những lĩnh vực quan tâm này chủ yếu dựa vào những đóng góp và mức độ thiệt hại cũng như là sự lan tỏa khi phục hồi của ngành đó đối với phát triển. “Bên cạnh đó, chương trình này phải đủ dài về mặt thời gian từ năm 2022 đến năm 2023 mới đảm bảo hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi”, TS. Võ Trí Thành khẳng định.
Cùng với đó, chính sách tài khóa là trọng yếu nhưng phải phối hợp cùng chính sách tiền tệ và các chính sách khác, đặc biệt là những chính sách liên quan đến kích cầu, kinh tế số, phục hồi xanh. Đồng thời, việc thiết kế chính sách đối với chương trình phục hồi kinh tế này phải sát hơn để đảm bảo hiệu quả.
Mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ spin-off: Bài 1 - Thực trạng tại Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế
Mô hình doanh nghiệp khoa học và công nghệ khởi nguồn từ viện nghiên cứu, trường đại học (spin-off) được đánh giá là vừa cho phép nhà sáng chế giữ được tài sản trí tuệ, làm giàu từ tài sản trí tuệ đã khá phổ biến ở các nước phát triển.
Mô hình spin-off còn giúp các cơ sở nghiên cứu cũng như nhà nước hưởng lợi ích lâu dài nhưng hiện nay chưa được phát triển tại Việt Nam. Thông tấn xã Việt Nam giới thiệu 2 bài viết phân tích về lợi ích của mô hình spin-off cũng như những khó khăn, vướng mắc về việc mô hình này chưa phát triển tại Việt Nam.
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty Youngbag ViiNa khu Công nghiệp Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ảnh minh họa: TTXVN
Bài 1 - Thực trạng tại Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế
Hiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau về mô hình doanh nghiệp spin-off, hiểu một cách chung nhất thì spin-off là một pháp nhân độc lập được thành lập bởi một tổ chức mẹ để khai thác tài sản trí tuệ. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ spin-off được khởi nguồn từ các cơ sở nghiên cứu và đào tạo và là tổ chức hoạt động vì lợi nhuận và độc lập với các trường đại học, được sinh ra bởi thành viên của trường đại học, viện nghiên cứu hoặc trường đại học, viện nghiên cứu có cổ phần trong mô hình doanh nghiệp spin-off. Mô hình công ty, doanh nghiệp spin-off được hình thành từ đầu thế kỷ XIX ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh... sau đó lan ra châu Âu, Nhật Bản... Mô hình này được đánh giá là giải pháp thích hợp cho phép nhà sáng chế vừa giữ được tài sản trí tuệ, vừa thu được lợi nhuận kinh tế, đồng thời cơ sở nghiên cứu và nhà nước cũng được hưởng lợi ích lâu dài.
Thực trạng tại Việt Nam
Tại Việt Nam, quy định pháp lý về việc chuyển giao kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được hình thành thông qua triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước đã được ban hành, quan tâm thông qua: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017; cùng các nghị định và thông tư hướng dẫn như: Nghị định 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước, Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; Thông tư số 63/2018/TT-BTC ngày 30/7/2018 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định 70/2018/NĐ-CP; Thông tư số 10/2019/TT-BTC ngày 20/2/2019 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước; Thông tư số 02/2020/TT-BKHCN ngày 10/8/2020 hướng dẫn thi hành Khoản 1 Điều 41 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP...
Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết: Hành lang pháp lý để hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ spin-off đã có nhưng thực tiễn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: Đối với việc định giá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ để thực hiện các thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng thì Luật Quản lý sử dụng tài sản công quy định: tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, mọi tài sản công đều phải được nhà nước giao quyền quản lý, quyền sử dụng và các hình thức trao quyền khác cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đối tượng khác theo quy định. Nghị định 70/2018/NĐ-CP lại quy định: tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ (ở đây là các cơ sở nghiên cứu, đào tạo) phải thực hiện thủ tục nộp hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm quyền (cơ quan phê duyệt và cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ) thẩm định, trình người có thẩm quyền đại diện chủ sở hữu nhà nước xem xét quyết định và sau khi có quyết định giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả thì đơn vị chủ trì mới có thể xúc tiến đàm phán hợp tác, liên kết với doanh nghiệp hoặc tổ chức khác tham gia đầu tư thương mại hóa. Bên cạnh đó, việc định giá kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, tài sản trí tuệ là công việc rất phức tạp vì kết quả nghiên cứu bao gồm cả tài sản hữu hình, vô hình, tài sản trí tuệ và liên quan đến nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau, đặc biệt là những sản phẩm mới, công nghệ mới.
Về phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tại Khoản 3 Điều 28 Nghị định số 70/2018/NĐ-CP quy định việc phân chia lợi nhuận thu được cho nhà nước khi nhận giao quyền sử dụng để nghiên cứu, phát triển công nghệ, sản phẩm công nghệ, ứng dụng, thương mại hóa kết quả được thực hiện từ khi tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao có lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn nhà nước đã đóng góp vào nhiệm vụ. Điều này có nghĩa là mức hỗ trợ càng cao thì phần lợi nhuận tương ứng phải trả cho Nhà nước càng lớn. Quy định như vậy không tạo động lực cho tổ chức chủ trì là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập và nhà khoa học trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Ngoài ra, trong thực tế, quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn và mang tính rủi ro cao mà yêu cầu hoàn trả cho Nhà nước theo tỷ lệ đóng góp kinh phí cho việc tạo ra kết quả đó thì sẽ không khuyến khích nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia quá trình thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ để tạo ra doanh thu, lợi nhuận hoặc góp vốn bằng tài sản trí tuệ để thành lập doanh nghiệp spin-off, spin-out cùng doanh nghiệp và khu vực tư nhân.
Kinh nghiệm quốc tế
Tại Vương quốc Anh, từ năm 2003-2018, khoảng 3.000 công ty spin-off dựa trên tài sản trí tuệ đã được thành lập bởi các trường đại học của Vương quốc Anh. Nghiên cứu năm 2018 của Công ty Anderson Law cho thấy, 9/10 công ty spin-off tồn tại trên 5 năm (cao hơn so với các công ty khởi nghiệp thông thường). Spin-off nổi tiếng nhất tại Anh là ARM Holdings - Công ty thiết kế vi xử lý cho điện thoại thông minh do Đại học Cambridge thành lập và được Công ty Softbank (Nhật Bản) mua lại với giá 24 tỷ bảng Anh vào năm 2018.
Nguyên tắc chung là tài sản trí tuệ thuộc về tổ chức nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu, tuy nhiên, không phải lúc nào cũng hoàn toàn rõ ràng ai là người sở hữu mà các nhà đầu tư cần phải làm việc với các trường đại học để thỏa thuận điều đó - quyền tự do hợp đồng cho phép sự linh hoạt. Do đó, mỗi trường sẽ có quy trình và quy định riêng để xác định quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ cũng như phân phối quyền sở hữu (cổ phần) trong các công ty, doanh nghiệp spin-off như: Đại học Warwick chiếm 1/3 số cổ phần trong công ty spin-off và để lại 1/3 cho nhà nghiên cứu/sáng chế (nhà sáng lập), 1/3 cho các nhà đầu tư bên ngoài; Đại học Leeds, tỷ lệ chia là 60/40; Đại học Oxford chiếm 50% khi công ty spin-off được thành lập, các nhà nghiên cứu, sáng chế (nhà sáng lập) chiếm 50% còn lại...
Điển hình, quy trình tạo ra một công ty spin-off tại Đại học Oxford rất nghiêm ngặt để đảm bảo rằng chỉ những công nghệ vững chắc nhất, có định hướng thương mại mới được sản xuất trong một công ty từ trường đại học và quá trình này thường bắt đầu với một công ty tư vấn và Văn phòng dịch vụ nghiên cứu của trường để thảo luận về việc nộp bằng sáng chế và xác định quyền sở hữu đối với tài sản trí tuệ. Đại học Oxford không cho phép chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ, nhưng được phép chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp cho công ty spin-off và spin-off phải hoạt động trong các cơ sở bên ngoài trường đại học.
Tại Hoa Kỳ, từ năm 1980 đã ban hành Đạo luật Bayh-Dole, trao quyền sở hữu tài sản trí tuệ tạo ra từ ngân sách nhà nước cho viện nghiên cứu, trường đại học để liên kết với doanh nghiệp đầu tư thương mại hóa, giúp mô hình spin-off phát triển nhanh chóng. Trong vòng 20 năm từ năm 1980-1999, các công ty spin-off đã đóng góp 33,5 tỷ USD cho nền kinh tế và tạo ra 280.000 việc làm. Mỗi năm có hơn 200 công ty spin-off được đăng ký thành lập trên tổng số hơn 132 trường đại học ở Hoa Kỳ.
Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và Đại học Stanford là hai cơ sở đại học hàng đầu ở Hoa Kỳ, nổi tiếng với việc cho ra đời khoản 20-30 công ty spin-off/năm để phát triển công nghệ dựa trên nghiên cứu của trường. Hệ sinh thái đầu tư xung quanh MIT và Stanford luôn tồn tại hàng chục công ty đầu tư mạo hiểm đầu tư để tìm kiếm cơ hội mới. Các đối tác thường có chuyên môn về các lĩnh vực công nghệ sẵn sàng đầu tư và giúp "gắn kết công ty với nhau". Đối với sở hữu cổ phần trong công ty spin-off, MIT và Stanford thường yêu cầu khoảng 5% vốn chủ sở hữu của người sáng lập thông qua khoản đầu tư từ 1-5 triệu USD (cộng với tiền và phí bản quyền về sở hữu trí tuệ).
Còn tại Trung Quốc, từ năm 1990, nhiều trường đại học đã chủ động thúc đẩy thành lập các doanh nghiệp khoa học và công nghệ thuộc sở hữu của trường đại học (University run enterprise - URE). Các doanh nghiệp tập hợp tất cả các quá trình từ nghiên cứu, triển khai cho đến thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong cùng một tổ chức, điều này thu hẹp khoảng cách về tư duy và thiết lập nên các giao dịch khoa học và công nghệ để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ giữa trường đại học và khu vực công nghiệp.
Mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là các hoạt động thương mại hóa được điều phối theo cơ chế thị trường. Do đó, ngoài mô hình URE, mô hình doanh nghiệp spin-off xuất phát từ tinh thần kinh thương của các nhà khoa học cũng được coi là phương thức chuyển giao công nghệ hiệu quả. Từ năm 2000, Trung Quốc cho phép các nhà khoa học trong trường đại học được thành lập các doanh nghiệp spin-off. Bên cạnh khung chính sách pháp luật của nhà nước, cơ chế quản lý và cách nhìn nhận từ phía các trường đại học đối với các doanh nghiệp spin-off đã thay đổi, đặc biệt sự thay đổi về tư duy cải thiện hệ thống bằng sáng chế, việc cấp bằng sáng chế đã trở thành một thước đo để đo lường và khen thưởng hiệu quả hoạt động của trường đại học và nhà nghiên cứu.
Ngành ngân hàng đẩy mạnh kích cầu tín dụng cuối năm Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 29/10, tăng trưởng tín dụng bất ngờ ghi nhận mức tăng 8,72% so với cuối năm 2020, cao hơn so với mức tăng 6,5% ở cùng kỳ năm trong bối cảnh làn sóng dịch COVID-19 lần thứ 4 tác động đến nhiều lĩnh vực, doanh nghiệp trong nhiều tháng. Tuy vậy, tại TP Hồ Chí...