Gỡ khó cho các nhà đầu tư BOT
Cơ chế chính sách thường xuyên thay đổi, các dự án BOT giao thông thường có mức đầu tư lớn, thời gian vay dài, nhiều rủi ro khiến các ngân hàng “e ngại”, “quay lưng” với nhà đầu tư, hoặc khi thẩm định đề xuất dự án, ngân hàng cùng nhà đầu tư nghiên cứu nhưng khi gặp khó khăn, bất lợi lại phó mặc cho nhà đầu tư… Đây là những khó khăn mà các nhà đầu tư dự án giao thông đang phải đối mặt.
“Trăm dâu đổ đầu tằm”
Chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả Hồ Minh Hoàng thẳng thắn chỉ ra nhiều bất cập trong đầu tư BOT: Cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ Giao thông vận tải, địa phương thực hiện việc cam kết không phải lúc nào cũng như lời mời gọi đầu tư ban đầu. Các nhà đầu tư hiện nay chưa được nhà quản lý đối xử bình đẳng đúng tinh thần hợp tác công – tư cũng như vai trò là một bên của hợp đồng dự án. Ví dụ như dự án hầm Đèo Cả được nhà nước hỗ trợ phân bổ 5.048 tỷ đồng từ vốn trái phiếu Chính phủ nhưng đã giải ngân chậm gần 2 năm, Quốc hội đã thu hồi 1.180 tỷ đồng do việc giải ngân bị kéo dài so với kế hoạch ban đầu. Bộ Giao thông vận tải đề nghị bỏ trạm thu phí La Sơn – Túy Loan khi chưa thống nhất làm rõ phương án bù đắp với nhà đầu tư. Trong một số trường hợp, cơ quan nhà nước đã đẩy dự án và nhà đầu tư vào tình trạng bất ổn.
Đối với các cơ quan kiểm tra, giám sát, một số dự án khi nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp là nhà đầu tư cũ vi phạm pháp luật nhưng vi phạm đó không liên quan đến dự án, cán bộ điều tra lại mở rộng phạm vi thu thập thông tin, tài liệu với cả các nhân sự và giao dịch mới vốn không liên quan đến vụ việc đang điều tra, xử lý. Thực tế này làm môi trường đầu tư trở nên bất an, khiến các bên đang tích cực tháo gỡ khó khăn tại một số dự án lo sợ, né tránh.
Cũng theo ông Hồ Minh Hoàng, trong một số trường hợp khi dự án đang gặp khó khăn thì các cuộc thanh tra lại diễn ra thường xuyên hơn, những “sai sót” được tích lũy để cung cấp thông tin cho dư luận làm gia tăng thêm áp lực cho dự án nhưng không đánh giá hết các sai sót về mặt cơ chế, chính sách pháp luật và cũng không định lượng các giá trị sai sót của Nhà nước, mà chủ yếu đánh giá những bất lợi về một bên làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư, làm nhận thức của người dân về các dự án BOT bị thiên lệch. Bất lợi chủ yếu thuộc về nhà đầu tư.
Phó mặc cho nhà đầu tư
Theo tính toán của Ngân hàng Phát triển châu Á, để duy trì mức tăng trưởng như hiện nay, Việt Nam cần tăng thêm đầu tư vào cơ sở hạ tầng khoảng 11-12% GDP. Nhu cầu vốn tín dụng cho xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm duy trì nhịp độ phát triển cao trong 5-10 năm tới tại Việt Nam là rất lớn, ước tính khoảng 100 tỷ USD. Chỉ tính riêng cho nhu cầu vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông, theo tính toán của Bộ Giao thông vận tải, tổng nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2016-2020 vào khoảng 952.731 tỷ đồng (đã bao gồm vốn ODA, vốn ngân sách và huy động ngoài ngân sách).
Video đang HOT
Tính đến 30/6/2019, tổng mức cam kết cấp tín dụng các ngân hàng thương mại cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông là 293.500 tỷ đồng, trong đó, cam kết cấp tín dụng cho các dự án BOT, BT giao thông là 182.619 tỷ đồng, tăng 1,24% so với năm 2018.
Tuy nhiên, việc cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt là các dự án BOT, BT giao thông còn một số bất cập, chưa đánh giá đủ rủi ro. Các dự án BOT giao thông thường có mức đầu tư lớn, thời gian vay dài, mức vốn tự có yêu cầu thấp (10-15%), hầu hết các nhà đầu tư có năng lực tài chính hạn chế, trường hợp tổng mức đầu tư tăng, chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc bổ sung vốn. Bên cạnh đó, việc cho vay dài hạn đối với các dự án hạ tầng giao thông còn gặp rủi ro liên quan đến chất lượng công trình, sự phản đối của chủ phương tiện và người sử dụng dịch vụ đường bộ… Trong trường hợp mức phí không được tăng như dự kiến trong các Hợp đồng BOT thì nguồn thu của dự án có thể sẽ phải kéo dài thời gian hoàn vốn, dẫn đến ngân hàng phải cơ cấu kéo dài thời gian trả nợ, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ông Hồ Minh Hoàng, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đèo Cả cho biết, thực tế hiện nay ngân hàng đang “quay lưng” với nhà đầu tư. Khi thẩm định đề xuất dự án, ngân hàng cùng nhà đầu tư nghiên cứu nhưng khi gặp khó khăn, bất lợi lại phó mặc cho nhà đầu tư. Ngân hàng là bên tài trợ vốn, bản chất cũng như một nhà đầu tư kinh doanh tiền tệ, mặc dù được hưởng lợi ích từ lãi suất cho vay nhưng khi dự án gặp phải khó khăn, vướng mắc thì bàng quan, im lặng. Nhu cầu vốn cho các dự án hạ tầng giao thông ngày càng lớn, tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều ngân hàng thương mại đang “quay lưng” với các dự án giao thông vì những rủi ro hiện hữu trong quá trình thu phí tại các dự án này. Ngân hàng chỉ quan tâm đến việc thu đủ, thu đúng và sẵn sàng phát ra thông điệp rủi ro là do nhà nước và nhà đầu tư đã không thực hiện theo đúng cam kết.
Chính vì vậy, theo PGS. TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, đối với các dự án BOT giao thông, nếu đơn vị nào cam kết về chất lượng, trách nhiệm thì nhà nước phải hỗ trợ, kể cả việc đứng ra bảo lãnh vốn để chủ đầu tư vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, các rủi ro về chính sách, môi trường pháp lý cần phải được nhìn nhận bởi hiện nay môi trường chính sách và hệ thống pháp lý còn không ít vấn đề khiến các nền tảng cũ xung đột với nhau.
Xuân Thảo
Theo Taiquanonline.com.vn
Siết tín dụng cho dự án BOT, BT: Liều lượng thế nào là hợp lý?
Động thái "siết tín dụng" của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua tăng cường kiểm soát hoạt động cho vay đối với các dự án BOT, BT giao thông đã và đang làm "vắng bóng" các dự án đầu tư theo các hình thức này. Hiện đang tồn tại những ý kiến khác nhau về việc siết chặt cho vay đối với các dự án BOT, BT giao thông.
Hiện nay, dư nợ tín dụng của các dự án BOT khá lớn và hầu hết các nhà đầu tư lớn trong nước đang phải vay ngân hàng để thực hiện các dự án BOT. Ảnh: Tường Lâm
NHNN: Siết tín dụng là cần thiết
Theo NHNN, lý do của việc phải "siết tín dụng" đối với các dự án BOT, BT giao thông là vì việc cấp tín dụng đối với loại dự án này tiềm ẩn rủi ro trong dài hạn (các dự án có tổng mức đầu tư lớn, thời gian cho vay dài, năng lực tài chính của chủ đầu tư hạn chế). Hơn nữa, tài sản bảo đảm chủ yếu trong các dự án BOT, BT là quyền thu phí, trong khi chính sách phí chưa thực sự ổn định, nguy cơ chuyển nợ sang nhóm nợ xấu là rất lớn.
Trao đổi với Báo Đấu thầu, một số chuyên gia cho biết, bản chất của các dự án BOT, BT là đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư nhưng ở Việt Nam, hầu hết các dự án BOT, BT đều vay vốn ngân hàng thương mại trong nước, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư chỉ chiếm 10 - 15% tổng mức đầu tư dự án. Nếu xảy ra rủi ro đối với phương án tài chính của Dự án, hầu hết đều gây bất lợi cho phía các tổ chức tín dụng (đặc biệt là các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối) và Nhà nước. Trường hợp Nhà nước phải mua lại dự án hoặc xử lý các vấn đề liên quan đến tài chính sau khi nhà đầu tư không "kham nổi" thì vô hình trung, các dự án BOT ở Việt Nam đang chuyển sang dự án hợp tác công - công.
Ông Nguyễn Văn Huyện, Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam cho rằng, việc NHNN tăng cường kiểm soát trong hoạt động cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông là cần thiết để đảm bảo giảm thiểu rủi ro thanh khoản cho ngành ngân hàng. Trong hàng chục dự án BOT không đảm bảo phương án tài chính thời gian qua, không ít dự án có lưu lượng phương tiện lưu thông thực tế thấp hơn so với dự kiến trong hợp đồng, theo đó thời gian thu phí hoàn vốn cho dự án sẽ phải kéo dài thêm, phần lớn rủi ro sẽ thuộc về ngân hàng cho vay.
Những trăn trở của nhà đầu tư
Trước những động thái "siết tín dụng" của phía NHNN, một số nhà đầu tư cho biết, đầu tư vào lĩnh vực gì cũng có những rủi ro nhất định. Đối với dự án dài hơi như BOT (thời gian thu phí hoàn vốn trung bình khoảng 20 - 25 năm/dự án), nếu không có sự song hành của ngân hàng cho vay thì nhà đầu tư dù nhiệt thành theo đuổi cũng phải "bó tay". Đó cũng là nguyên nhân vì sao từ cuối năm 2015 trở lại đây khi mà NHNN bắt đầu có "động thái" quản chặt, siết lại tín dụng đối với các dự án BOT, BT thì thị trường xây dựng Việt Nam đã có dấu hiệu "vắng bóng" các loại hình dự án này.
Hơn nữa, trong bối cảnh Nhà nước đang kêu gọi đầu tư vào cao tốc Bắc - Nam phía Đông, nếu NHNN vẫn giữ thông điệp "siết tín dụng" đối với các dự án BOT, BT thì cơ hội đầu tư tham gia vào tuyến cao tốc này của nhiều nhà đầu tư trong nước rất nhỏ. Hiện nay, dư nợ tín dụng của các dự án BOT khá lớn và hầu hết các nhà đầu tư lớn trong nước (có khả năng tham gia đầu tư vào cao tốc Bắc - Nam phía Đông) đang phải vay ngân hàng để thực hiện các dự án BOT thời gian qua. Nếu ngân hàng không nới hạn mức tín dụng cho vay, những nhà đầu tư này sẽ không "có cửa" để vay tiếp. Trong khi đó, nhà đầu tư trong nước có đầy đủ kinh nghiệm và tâm huyết để làm các tuyến đường cao tốc. Minh chứng là thời gian qua, nhiều nhà đầu tư trong nước đã làm những dự án giao thông lớn như: cao tốc Hạ Long - Vân Đồn, cao tốc Vân Đồn - Móng Cái, hầm Đèo Cả...
Theo ông Ngọ Trường Nam, đại diện Công ty CP Tập đoàn Đèo Cả, Nhà nước nên "rộng cửa" hơn với nhà đầu tư trong nước thông qua việc xem xét nới rộng hạn mức tín dụng vay vốn ngân hàng cho các dự án BOT. Điều này sẽ tiếp sức cho nhà đầu trong nước khi theo đuổi dự án BOT có tuổi đời từ 20 - 30 năm, mặt khác cũng tạo điều kiện để nhà đầu tư trong nước được "đọ sức" với nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư vào tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông thời gian tới.
Tuy nhiên, chia sẻ với Báo Đấu thầu, nhiều chuyên gia kinh tế và nhà quản lý cho rằng, "cái mất" của việc quản chặt dòng vốn cho vay có thể là sự suy giảm rõ rệt số lượng dự án BOT, BT được triển khai, nhưng đổi lại, Nhà nước và xã hội sẽ có những dự án BOT, BT chất lượng và hiệu quả hơn.
Tuấn Dũng
Theo baodauthau.vn
CII thu về 200 tỷ trái phiếu riêng lẻ đợt 3, cổ phiếu vẫn dò đáy Từ đầu năm đến nay, CII đã liên tục phát hành trái phiếu để huy động vốn. CII cũng mới ký kết hợp đồng để thu hồi (vốn đầu tư và lợi nhuận) số tiền khoảng 1.120 tỷ đồng. Kết quả, CII có thể sẽ hủy đợt phát hành 800 tỷ trái phiếu trong quý 3, hoặc tiếp tục phát hành để thực...