Giữ nguyên nhóm nợ với BOT giao thông: Vẫn là nợ xấu
Theo chuyên gia ngân hàng, việc giữ nguyên nhóm nợ đối với một số dự án BOT giao thông không làm thay đổi bản chất của món nợ đó.
Trong văn bản gửi Văn phòng Chính phủ mới đây, Bộ GTVT cho biết bộ này thống nhất với kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc giữ nguyên nhóm nợ đối với Dự án BOT QL19 nói riêng và các dự án BOT nói chung có doanh thu sụt giảm bởi những nguyên nhân khách quan.
Theo Bộ GTVT, đề xuất này sẽ giúp tránh phá vỡ phương án tài chính của các dự án, tránh để các khoản vay đầu tư BOT bị chuyển thành nợ xấu, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của Tổng công ty 36 (nhà đầu tư Dự án BOT QL19) nói riêng và của các doanh nghiệp dự án nói chung, ảnh hưởng đến chủ trương kêu gọi đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức PPP.
PGS.TS Ngô Hướng, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Ngân hàng TP.HCM tỏ ra ngạc nhiên trước kiến nghị này của Ngân hàng Nhà nước và Bộ GTVT, đồng thời thẳng thắn cho rằng không nên xem xét kiến nghị này.
Theo ông Hướng, mỗi món nợ được xếp vào nhóm nào đều dựa theo tính chất của nhóm nợ đó, nói cách khác luôn có chuẩn để đánh giá, sắp xếp mỗi món nợ ở nhóm nào. Thay vì nâng nhóm nợ lên, chẳng hạn đưa nợ từ nhóm rủi ro thấp lên nhóm rủi ro cao, thì lại giữ nguyên món nợ ấy ở nhóm rủi ro thấp, khiến tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thay đổi, phản ánh không đúng bản chất của nó.
Theo nhà đầu tư, số thu thực tế tại dự án BOT QL19 không đủ để trả nợ gốc và lãi ngân hàng.
“Khi giữ nguyên nhóm nợ, các khoản vay đầu tư BOT sẽ tránh bị chuyển thành nợ xấu. Cái này lợi cho nhà đầu tư BOT và cũng lợi cho ngân hàng khi nợ xấu không tăng.
Cách làm này chẳng qua là để các ngân hàng yên tâm, nhưng đó chỉ là về mặt hình thức. Làm sao có thể yên tâm khi bản chất món nợ ấy không hề thay đổi, nó vẫn là nợ xấu. Xấu là xấu, tốt là tốt, không thể nhập nhèm được.
Hơn nữa, việc giữ nguyên nhóm nợ đối với những dự án BOT thua lỗ như vậy sẽ khiến việc quản lý của ngân hàng trở nên thiếu chính xác”, PGS.TS Ngô Hướng phân tích.
Chính vì thế, theo vị chuyên gia, trừ trường hợp dự án được Nhà nước đứng ra bảo lãnh, không nên giữ nguyên nhóm nợ đối với những dự án thua lỗ, rủi ro như trên.
“Việc làm ấy không có ý nghĩa gì. Dự án không thu được là không thu được. Nếu giữ nguyên nhóm nợ thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hình dung như thế nào về nợ xấu ngân hàng? Bản chất ra sao hãy cứ tôn trọng như thế, giữ nguyên tính chất của món nợ để đảm bảo việc quản lý, điều hành được chính xác, không phải muốn để nhóm nào thì để”, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Ngân hàng TP.HCM nhấn mạnh.
Sau cùng, PGS.TS Ngô Hướng cho rằng, kiến nghị của Bộ GTVT mang tính chủ quan.
Trước đó, trong báo cáo tới Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng đã thẳng thắn chỉ rõ rủi ro, lo ngại về 53.000 tỉ đồng đang cho vay các dự án BOT; BT.
Theo đó, có nhiều dự án BOT, BT giao thông đã hoàn thành, đi vào khai thác có doanh thu không đạt như phương án tài chính ban đầu, với dư nợ khoảng 53.000 tỷ đồng có nguy cơ phải cơ cấu nợ, phát sinh nợ xấu cho các ngân hàng thương mại.
Video đang HOT
Để giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tín dụng khi 53.000 tỷ đồng nói trên có nguy cơ phát sinh nợ xấu, theo chuyên gia tài chính-kinh tế Trịnh Đoàn Tuấn Linh, không riêng các dự án BOT, BT giao thông, bất kỳ ngành nào có tác động đến xã hội, đến hiệu quả của nó, gây rủi ro cho ngân hàng hay cho các chủ thể khác tham gia thì thông thường Nhà nước sẽ xem xét có nên giải cứu hay không.
Trong trường hợp các dự án BOT, BT không đạt doanh thu như phương án tài chính ban đầu thì cần phải xem xét cái sai của các chủ thể tham gia. Đồng thời phải tìm cách để nó không gây đổ vỡ dây chuyền hay tổn hại đến sự vận hành của hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Đối với những dự án bị thua lỗ do nhân tố khách quan, NHNN có thể tiến hành cơ cấu nợ; đồng thời có biện pháp giải quyết căn cơ đối với những chủ thể làm sai, trong đó có việc xem xét xử lý trách nhiệm người đứng đầu, phê duyệt các khoản vay cho dự án BOT, BT.
Theo báo cáo của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, năm 2018 có 52 dự án BOT đã đưa vào vận hành khai thác có đủ điều kiện đánh giá về doanh thu thực tế so với hợp đồng, có 27 dự án có doanh thu thực tế tăng so với phương án tài chính ban đầu, 26 dự án có doanh thu thực tế thấp hơn so với phương án tài chính ban đầu.
Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm doanh thu, theo Bộ GTVT là do các dự án phải giảm giá dịch vụ sử dụng đường bộ (loại xe nhóm 4, nhóm 5) theo chỉ đạo của Chính phủ và chưa tăng phí theo đúng lộ trình (tăng từ 12-18%/3 năm) trong Hợp đồng BOT theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ – Trưởng ban chỉ đạo điều hành giá.
Các dự án bị sụt giảm doanh thu còn do có lưu lượng thấp hơn so với dự báo; việc bán vé tháng, vé quý tại các trạm này làm doanh thu giảm từ 15%-20% so với phương án tài chính ban đầu dự kiến khoảng 5%.
Tại một số dự án trong quá trình thu phí đã xuất hiện các tuyến đường tuyến đường song hành, đường ngang qua khu vực trạm thu phí dẫn đến xe tránh trạm hoặc phân lưu và do một số địa phương đầu tư các dự án giao thông đi song hành hoặc ngang qua khu vực trạm thu phí dẫn đến việc thất thoát lưu lượng và có thể vỡ phương án tài chính.
Thành Luân
Theo Baodatviet.vn
Chứng khoán hóa xử lý nợ xấu ngân hàng: Nghiên cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc
Kế hoạch hành động Hà Nội vào năm 2000 trong khuôn khổ ASEAN mà các nước thành viên cam kết thực hiện đã đưa ra phương án hợp tác về phát triển thị trường vốn bao gồm 11 điểm, trong đó có cam kết về thức đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán hóa.
Tuy nhiên, cho đến nay, chứng khoán hóa vẫn là một kỹ thuật mới đối với thị trường tài chính Việt Nam. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng phát triển chứng khoán hóa tại Hàn Quốc và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình tìm kiếm những giải pháp xử lý nợ xấu của nền kinh tế Việt Nam.
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Đặt vấn đề
Theo Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tài chính Việt Nam trong năm 2018 là khoảng 2,4%. Việc xử lý nợ xấu sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng chiếm 59,8%, thu nợ từ khách hàng chiếm 33,2%, bán phát mại tài sản chiếm 3%, còn lại là bằng các hình thức khác. Mặc dù, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro là biện pháp xử lý nợ xấu đang được các tổ chức có liên quan vận dụng nhiều nhất, nhưng bản chất của giải pháp này vẫn là sử dụng nguồn lực nội tại của các tổ chức tín dụng.
Chứng khoán hóa có thể hiểu là một quá trình cơ cấu lại các tài sản tài chính mà theo đó các tài sản thế chấp khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói bởi một tổ chức trung gian chuyên trách, sau đó, thông qua công tác định giá rủi ro của các tổ chức định mức tín nhiệm, những tài sản đó đảm bảo để phát hành các chứng khoán qua kênh của tổ chức bảo lãnh phát hành với mức giá và lãi suất hợp lý. Tương ứng tiền từ người mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến những trung gian tài chính để những trung gian này bù đắp vào các khoản cho vay thế chấp trước đó. Các loại tài sản có thể đem chứng khoán hóa rất đa dang nhưng phải đáp ứng được những tiêu chuẩn kỹ thuật và phải đạt được mức độ tương đồng nhất định trong cùng một nhóm tài sản mang đi đóng gói.
Sự cần thiết ứng dụng chứng khoán hóa ở Việt Nam đã được Chính phủ chính thức ghi nhận. Kế hoạch hành động Hà Nội vào năm 2000 trong khuôn khổ ASEAN mà các nước thành viên cam kết thực hiện đã đưa ra phương án hợp tác về phát triển thị trường vốn bao gồm 11 điểm, trong đó có cam kết về thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán hóa. Đây là một cam kết quốc tế của Chính phủ về phát triển chứng khoán hóa ở Việt Nam và là căn cứ khẳng định việc ứng dụng chứng khoán hóa xử lý nợ xấu trong thời gian gần đây.
Kinh nghiệm phát triển chứng khoán hóa ở Hàn Quốc
Thị trường chứng khoán (TTCK) hóa ở Hàn Quốc hình thành và phát triển sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1999, nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính mà cụ thể là chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Đến những năm 2000 - 2001, thị trường đã đạt được mức phát triển ổn định và chứng khoán hóa nhanh chóng trở thành một công cụ hỗ trợ cho các công ty huy động nguồn tài chính cần thiết để vượt qua khó khăn của giai đoạn hậu khủng hoảng. Khi TTCK hóa đã bước vào giai đoạn phát triển sâu hơn thì hoạt động này trở nên phổ biến thành một công cụ huy động tài chính hữu hiệu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các tổ chức phát hành thẻ tín dụng, các định chế cung cấp các khoản vay thế chấp bất động sản và các khoản vay sinh viên... (Oh, 2008).
Chứng khoán hóa được các định chế tài chính Hàn Quốc coi như một công cụ tái cấu trúc các khoản nợ nói chung và đặc biệt các khoản nợ xấu nói riêng. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, kể từ khi ban hành Đạo luật ABS năm 1997, chứng khoán hóa đã trở thành một trong những kỹ thuật tài chính phổ biến nhất ở Hàn Quốc và khối lượng giao dịch thành công kể từ đó đã tăng theo cấp số nhân trong những năm qua (Lee, 2002).
Với 2 ưu thế cơ bản là khả năng chuyển đổi những tài sản kém thanh khoản thành các tài sản thanh khoản hơn và tạo ra những công cụ có độ tín nhiệm cao hơn từ những khoản nợ có độ tín nhiệm thấp (Gyntelberg, J. & E.M. Remolona, 2006), nên chứng khoán hóa được các định chế tài chính Hàn Quốc coi như một công cụ tái cấu trúc các khoản nợ nói chung và đặc biệt các khoản nợ xấu nói riêng. Thông qua việc chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, các tổ chức tài chính Hàn Quốc không chỉ xử lý các nợ xấu một cách hiệu quả, mà còn nhanh chóng nhận được khoản tiền cần thiết để giảm bớt các nghĩa vụ nợ phải trả để tuân thủ các quy định chung. Để khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng năm 1997, tỷ lệ chứng khoán hóa nợ xấu trên tổng khối lượng chứng khoán hóa tại Hàn Quốc ngày càng gia tăng, lên tới khoảng 42,2% vào năm 1999 (Lee, 2002). Chứng khoán ABS được phát hành lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào năm 1999 và có số lượng phát hành liên tục gia tăng nhanh cho đến năm 2001, nhưng sau đó có xu hướng giảm dần cho đến năm 2008. Chứng khoán ABS ít bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng hơn các sản phẩm khác nên đã lý giải được hiện tượng số lượng phát hành của ABS, dù có xu hướng giảm nhưng vẫn còn khả quan cho tới năm 2009.
Khi nền kinh tế dần hồi phục, hoạt động chứng khoán hóa tại Hàn Quốc vẫn đóng vai trò như một biện pháp xử lý nợ xấu (Bank of Korea, 2017). Số lượng chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản (ABS) vẫn tiếp tục gia tăng đáng kể. Khối lượng chứng khoán ABS trung bình hàng năm được phát hành là khoảng 40 - 60 nghìn tỷ Won trong vòng 7 năm vừa qua, đặc biệt năm 2015 lên tới 83 nghìn tỷ Won (Thomson Reuters, 2019). Những kết quả này một phần là do các cơ quan quản lý Hàn Quốc tiến hành các biện pháp hỗ trợ nhằm đảm bảo thị trường phát triển nhanh chóng nhưng vẫn nằm trong phạm vi có thể kiểm soát được. Dù ở giai đoạn này bản thân các ngân hàng thương mại Hàn Quốc có thể tự xử lý các khoản nợ xấu của mình một cách tương đối hiệu quả thì chứng khoán hóa vẫn được coi là một trong số các biện pháp được vận dụng nhiều nhất.
TTCK hóa Hàn Quốc hoạt động trên cơ sở 2 đạo luật cơ bản sau:
Thứ nhất, Đạo luật về Chứng khoán ABS được ban hành vào ngày 16/9/1998 nhằm tạo điều kiện tái cơ cấu hoặc xử lý các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính Hàn Quốc bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á giai đoạn 1997-1998.
Thứ hai, Đạo luật về Công ty Tài chính Nhà ở Hàn Quốc. Đạo luật này được ban hành vào ngày 31/12/2003 với mục tiêu tạo điều kiện để chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp bất động sản và khoản cho vay sinh viên của Tập đoàn Tài chính Nhà ở Hàn Quốc, qua đó cung cấp nguồn vốn tài trợ dài hạn cho các khoản vay này.
Chứng khoán hóa tại Hàn Quốc từ trước tới nay chủ yếu tập trung thực hiện đối với các khoản vay thế chấp nhà ở, các khoản phải thu thẻ tín dụng, các khoản vay trả góp mua ô tô và các khoản phải thu liên quan dự án bất động sản. Các sản phẩm chứng khoán hóa của các nghĩa vụ cho vay thế chấp được xếp hạng tín nhiệm cao cũng đặc biệt hấp dẫn đối với các công ty bảo hiểm Hàn Quốc, do họ cam kết thanh toán mức bảo hiểm cao cho các khách hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm chứng khoán hóa mới được giới thiệu gần đây tại Hàn Quốc như: Chứng khoán hóa các khoản phải thu thương mại nhượng quyền, các nghĩa vụ nợ được thế chấp hay các sản phẩm phái sinh cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư.
TTCK hóa nội địa tại Hàn Quốc đã phát triển với những quy định quản lý hoàn chỉnh hàng đầu châu Á. Tuy nhiên, các giao dịch chứng khoán hóa xuyên biên giới vẫn còn khá ít với quy mô phát hành hàng năm tương đối nhỏ trung bình khoảng từ 2-3 tỷ USD (Asifma, 2018) và chủ yếu vẫn là phát hành riêng cho 1-3 nhà đầu tư (Bank of Korea, 2017) nên cũng khó thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế. Nguyên nhân là do các tổ chức khởi tạo có thể dễ dàng huy động nguồn vốn nội tệ bằng cách phát hành trái phiếu, cũng như Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích các công ty Hàn Quốc giảm huy động bằng vốn ngoại tệ do lo ngại sự biến động thường xuyên của nền kinh tế toàn cầuua. Thêm vào đó, những quy định kiểm soát ngoại hối của Hàn Quốc khá khắt khe. Trên thực tế, những quy định này có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài nhưng mặt khác đã góp phần ổn định hệ thống tài chính Hàn Quốc vốn trước đó bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự biến động của thị trường ngoại hối (Lee, 2002), (Thomson Reuters, 2019).
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển TTCK hóa Hàn Quốc với tư cách là một trong những thị trường sôi động nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương là kinh nghiệm hữu ích cho những quốc gia đi sau, trong đó có Việt Nam. Theo đó, Việt Nam có thể nghiên cứu và rút ra những bài học đáng lưu ý. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, TTCK hóa có thể hình thành và phát triển trên cơ sở ban hành một đạo Luật Quản lý hoạt động chứng khoán hóa thống nhất.
Chứng khoán hóa là quá trình phức tạp với sự tham gia của nhiều bên có liên quan. Vì vậy, việc ban hành một khung khổ pháp lý hướng dẫn cho hoạt động chứng khoán hóa là yếu tố cần thiết, góp phần tạo lập và phát triển TTCK hóa như trường hợp Hàn Quốc ban hành Đạo luật ABS. Đối với Việt Nam, việc cân nhắc ban hành một Luật Quản lý hoạt động chứng khoán hóa để tạo thành một khung khổ pháp lý mang tính hướng dẫn; đồng thời, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện giải pháp này sẽ là động lực lớn thúc đẩy sự phát triển của TTCK hóa tại Việt Nam.
Thứ hai, Luật Quản lý hoạt động chứng khoán hóa nên liên kết chặt chẽ với các quy định hiện hành khác.
Tại Hàn Quốc, Đạo luật ABS có liên kết chặt chẽ với một số đạo luật khác của Hàn Quốc như Bộ luật Dân sự Hàn Quốc, Luật Kiểm soát về ưu đãi thuế và các luật dân sự chung khác để tránh những vướng mắc pháp lý đối với các giao dịch chứng khoán hóa hoặc giảm đến mức chấp nhận được. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam nên cân nhắc áp dụng vì nếu Luật Quản lý hoạt động chứng khoán hóa được liên kết với các luật dân sự khác sẽ cung cấp cho các bên có liên quan một văn bản quy phạm pháp luật tham chiếu tổng hợp hướng dẫn thực hiện các vấn đề có thể phát sinh liên quan tới quá trình chứng khoán hóa. Việc liên kết này sẽ làm rõ những ưu đãi mà các bên có liên quan được hưởng, qua đó góp phần tạo động lực cho hoạt động chứng khoán hóa phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, cần hoàn thiện các điều kiện của thị trường.
Nhu cầu sử dụng chứng khoán hóa như một biện pháp xử lý nợ xấu là nét tương đồng của thị trường tài chính Việt Nam hiện nay với thị trường Hàn Quốc trước đây. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, nhu cầu thực tế của thị trường là một động lực thúc đẩy sự phát triển của TTCK hóa, tuy nhiên để triển khai hiệu quả giải pháp này cần hoàn thiện các điều kiện của thị trường. Quá trình chứng khoán hóa là phức tạp nên cần có cơ chế khuyến khích phát triển, đồng thời đảm bảo quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động của các bên có liên quan như: Tổ chức khởi tạo, tổ chức trung gian chuyên trách phát hành, tổ chức phục vụ, tổ chức ủy thác kinh doanh, nhà đầu tư và tổ chức xếp hạng tín nhiệm...
Xuất phát từ thực tiễn là quá trình xử lý nợ xấu tại Việt Nam thời gian qua vẫn chưa hoàn toàn triệt để nên chúng ta có thể cân nhắc để lựa chọn giải pháp chứng khoán hóa như một biện pháp mang tính thị trường hơn để xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. ADB (2018), Asean 3 Bond market guide: Republic of Korea. Asean Development Bank;
2. Asifma. (2018), ASIFMA Securitisation in Asia 2018. Asifma;
3. Bank of Korea. (2017), The Financial Market in Korea. Seou: Bank of Korea;
4. Gyntelberg, J. & E.M. Remolona, (2006), Securitisation in Asia and the Pacific: implications for liquidity and credit risks. BIS Quaterly Review, June, 65-75;
5. He, D. (2004), The Role of KAMCO in Resolving Non-Performing Loans in the Republic of Korea. Washington D.C.: IMF;
6. Sustainalytics, (2018), Korea Housing Finance Corporation Social Covered Bond, Sustainalytics;
7. Thomson Reuters, (2019, June), Structured finance and securitisation in South Korea: overview, Retrieved from http://uk.practicallaw.com/6-381-1640?source=relatedcontent.
TS. Trần Thị Vân Anh
Theo Tapchitaichinh.vn
Đề nghị 'tấn công' nhanh, mạnh vào tín dụng đen Nợ xấu của hệ thống ngân hàng là từ các đại gia, chứ không phải do mấy khoản nợ "bèo" của những người nghèo, công nhân, nông dân mà ra. "Làm chính sách cần có trái tim biết rung động vì người nghèo" - đó là khẳng định của ông Trương Văn Phước, thành viên của Tổ tư vấn kinh tế Thủ tướng,...