Giới chức FED để ngỏ khả năng tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát
Giới chức Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ ( FED) ngày 26/9 đã để ngỏ khả năng sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất lên mức đủ để hạ tỷ lệ lạm phát hiện đang ở mức cao bất thường.
Đồng USD tại Washington, DC. Ảnh: THX/TTXVN
Phát biểu tại Phòng Thương mại vùng Đại Boston ở bang Massachusetts, bà Susan Collins, Chủ tịch FED chi nhánh Boston, đã tán thành các dự báo được FED công bố tuần trước, trong đó báo hiệu cơ quan này sẽ nâng lãi suất cơ bản lên 4,6% vào năm tới, tăng mạnh so với mức khoảng 3,1% hiện nay.
Bà nhấn mạnh để giảm lạm phát sẽ “đòi hỏi tăng trưởng việc làm chậm hơn và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn một chút”. Trong bối cảnh dư luận đang ngày càng lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế, bà Collins cho rằng dù còn nhiều thách thức, song Mỹ vẫn có thể đạt được mục tiêu đảm bảo nền kinh tế sẽ giảm tốc ở mức độ “vừa phải”.
Trong khi đó, Chủ tịch FED chi nhánh Cleveland Loretta Mester cho rằng lãi suất ngắn hạn của FED sẽ phải duy trì ở mức cao hơn dự kiến trước đây, dù nền kinh tế đầu tàu thế giới phải đối mặt với nhiều bất ổn, trong đó có bất ổn liên quan xung đột Nga-Ukraine và những khó khăn trong chuỗi cung ứng. Theo bà, khi tình hình có nhiều bất ổn, các nhà hoạch định chính sách cần hành động quyết đoán để ngăn chặn những hậu quả xấu nhất. Bà thừa nhận việc lãi suất tăng cao hơn sẽ khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng, song không tăng lên mức 5,5% như dự báo trước đó của ngân hàng Bank of America.
Video đang HOT
Trước đó, ngày 22/9, FED đã công bố thêm một đợt tăng lãi suất mạnh nhằm hạ nhiệt lạm phát hiện ở mức cao nhất trong 4 thập niên qua. Theo đó, lãi suất cho vay cơ bản của FED được điều chỉnh tăng thêm 0,75 điểm phần trăm, dao động trong biên độ từ 3,0-3,25%. Tốc độ tăng lãi suất hiện nay của FED, được đánh giá là nhanh nhất trong hơn 40 năm qua, đã khơi mào một cuộc tranh luận về hậu quả của động thái này đối với nền kinh tế lớn nhất thế giới. Với việc nâng lãi suất cơ bản của FED, chi phí cho hàng loạt khoản vay tiêu dùng và kinh doanh, bao gồm cả các khoản thế chấp, cho vay mua ô tô và thẻ tín dụng, tăng lên. Dù vậy, giới chức FED vẫn liên tục nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng lãi suất lên cao tới mức cần thiết để kéo lạm phát xuống, cho dù việc này có gây tổn thất đối với thị trường việc làm và nền kinh tế.
Thế giới đau đầu với đồng USD mạnh
Việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất trong cuộc họp vào ngày 20 - 21/9 không còn là chuyện phải bàn cãi.
Nhưng khi Fed tăng lãi suất, đồng USD tiếp tục mạnh lên, với phần còn lại của thế giới, đó thực sự là vấn đề.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell trong cuộc họp báo tại Washington DC. Ảnh: THX/TTXVN
Trước cuộc họp ngày 20 - 21/9, Fed đã 4 lần tăng lãi suất, bao gồm 2 lần tăng 0,75 điểm cơ bản, là mức tăng cao nhất kể từ năm 1994. Lãi suất cơ bản ở Mỹ hiện trong khoảng 2,25 - 2,5%. Theo dự đoán của cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Lawrence Summers, cuối cùng, Fed không thể không tăng lãi suất lên trên mức 4,3% để kiềm chế lạm phát. Ông Lawrence Summers cũng nói thêm rằng nếu muốn kiểm soát lạm phát một cách tuyệt đối, Fed sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất. Trong các tuyên bố của Fed, người ta cũng thấy quan điểm xuyên suốt giải thích cho quyết định tăng lãi suất là để kiềm chế lạm phát.
Quả thực, Mỹ đang phải đối mặt với lạm phát đáng ghi vào lịch sử. Tháng 5/2022, Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2021, cao nhất kể từ năm 1981. Nhưng sang tháng 6, kỷ lục ấy đã bị xô đổ khi CPI vượt ngưỡng 9%, đạt 9,1%, trước khi giảm về mức 8,5% trong tháng 7 và 8,3% trong tháng 8. Dẫu vậy, CPI tháng 8 vẫn tăng vượt mức dự báo của thị trường (8,1%) khiến Fed vẫn phải hành động mạnh tay. Dự báo cấp tiến nhất cho tới thời điểm này có lẽ là của Mark Mobius, người được giới đầu tư gọi bằng cái tên thân quen là "ông vua của thị trường mới nổi". Mark Mobius cho rằng Fed có thể sẽ tăng lãi suất cao hơn mức lạm phát để kiềm chế sự leo thang của giá cả và không loại trừ khả năng Fed sẽ tăng lãi suất tới 9%.
Trở lại với lạm phát ở Mỹ, nguyên nhân gây ra có nhiều như xung đột Nga -Ukraine làm đứt gẫy chuỗi cung ứng, khiến giá dầu mỏ, khí đốt, lương thực và phân bón tăng mạnh. Tuy nhiên, cốt lõi là từ chính sách nới lỏng tiền tệ (QE) của Mỹ. Năm 2008, sau khi khủng hoảng tài chính bùng nổ, Fed lần đầu tiên thực hiện QE, giải phóng một lượng lớn tiền ra thị trường. Nửa đầu năm 2019, Fed bắt đầu bán bớt tài sản và giảm lượng cung tiền. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ không chịu đựng nổi sự thắt chặt này và Fed phải đảo ngược chính sách, nới lỏng trở lại.
Đại dịch COVID-19 bùng phát, vào tháng 3/2020, Fed quyết định hạ lãi suất cơ bản xuống còn 0 - 0,25%. Tới tháng 6/2021, bảng cân đối kế toán của Fed lần đầu tiên vượt mốc 8.000 tỷ USD, nghĩa là tăng gần gấp đôi so với thời điểm bắt đầu chương trình mua tài sản quy mô lớn vào tháng 3/2020 để hỗ trợ kinh tế trước tác động của dịch bệnh. Đến ngày 14/3/2022, nghĩa là trước thềm Fed tăng lãi suất lần đầu tiên sau hơn 3 năm, quy mô bảng cân đối kế toán là hơn 8.954 tỷ USD. Còn lạm phát ở Mỹ đã tăng cao từ những tháng đầu năm 2021.
Nguyên nhân thúc đẩy là sự khác biệt về điểm đến của dòng tiền trong QE. Năm 2008, Fed bơm tiền để mua tài sản độc hại của ngân hàng, ngăn không cho ngân hàng mất thanh khoản và sụp đổ dây chuyền, thực chất không tạo ra tiền mới trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy sau khi các gói QE giải quyết khủng hoảng tài chính được triển khai, lạm phát tại Mỹ chưa khi nào vượt quá 4%. Nhưng trong các gói QE sau đại dịch, tiền lại được đưa vào lưu thông trong nền kinh tế thông qua những tấm séc trợ cấp, các khoản hỗ trợ thất nghiệp bổ sung... Vì vậy, cung tiền M2 của Mỹ tăng vọt theo quy mô bảng cân đối kế toán của Fed. Khi cung tiền tăng nhanh hơn nhiều so với năng lực sản xuất của nền kinh tế, lạm phát cao là điều tất yếu.
Người dân xếp hàng chờ mua dầu hỏa tại Colombo, Sri Lanka ngày 17/6. Ảnh: THX/TTXVN
Thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, Fed buộc phải tăng lãi suất, khiến các nhà đầu tư toàn cầu rút tiền khỏi các thị trường khác nhằm đầu tư vào các tài sản Mỹ có lợi suất cao và đồng USD đã mạnh lên. Với vai trò là là đồng tiền chủ chốt sử dụng trong thương mại và tài chính toàn cầu, biến động của đồng USD luôn gây ra ảnh hưởng ở diện rộng. Sự mạnh lên của đồng USD có thể được cảm nhận rõ nét trong tình trạng thiếu nhiên liệu và năng lượng ở Sri Lanka, lạm phát kỷ lục tại châu Âu và thâm hụt thương mại kỷ lục tại Nhật Bản...
Một vấn đề nữa là sự tăng giá của đồng USD khiến hàng nhập khẩu đắt hơn, gây bất ổn cho hệ thống tài chính và thúc đẩy tỷ lệ lạm phát của các nền kinh tế khác. Chính điều này đã buộc hàng chục ngân hàng trung ương trên thế giới cũng phải nâng lãi suất theo nhằm chống lạm phát. Lãi suất tăng khiến chi phí đi vay cũng tăng, qua đó ảnh hưởng đến hàng loạt thị trường bất động sản từ Australia cho đến Canada. Với các nước và doanh nghiệp vay nợ bằng đồng USD, áp lực càng lớn.
Vấn đề ở chỗ các nền kinh tế hiện nay không có nhiều công cụ để tác động ngược lại đồng USD. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư hiện nay không chỉ dự đoán Fed tiếp tục tăng lãi suất, mà còn lo lắng về rủi ro suy thoái của kinh tế thế giới đã được nhiều thiết chế tài chính quốc tế, bao gồm WB cảnh báo. Việc này sẽ khiến dòng vốn càng đổ vào đồng USD nhiều hơn, qua đó thúc đẩy "đồng bạc xanh" tiếp tục đi lên.
Nói tóm lại, việc Fed tăng lãi suất không phải là chuyện mới. Tuy nhiên, đây lại là lần đầu tiên việc đồng USD tăng giá tác động sâu rộng đến cả những nền kinh tế phát triển lẫn các nước nghèo. Thống kê của hãng tin Bloomberg cho thấy trong số 31 đồng tiền của những nền kinh tế chủ chốt, có đến 4 đồng tiền của các nước giàu nằm trong nhóm 10 đồng tiền biểu hiện tệ nhất năm. "Nỗi đau" lan toả từ đồng USD mạnh xem ra không chừa ai và sẽ còn kéo dài.
Chủ tịch FED: Cần hành động 'mạnh mẽ' để kiềm chế lạm phát Ngày 8/9, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell cho rằng cơ quan này cần phải tiếp tục hành động "mạnh mẽ" để hạ nhiệt nhu cầu và kiểm soát giá cả để tránh tái diễn giai đoạn lạm phát tăng cao mà nền kinh tế đầu tàu thế giới đã trải qua trong những năm 1970 và...