Giáo sư dạy sử
Năm 2011, nhân dịp Đại tướng Võ Nguyên Giáp tròn 100 tuổi, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật đã cho ra mắt cuốn sách Võ Nguyên Giáp – Một cuộc đời do dịch giả Nguyễn Văn Sự chuyển ngữ từ cuốn Vo Nguyen Giap – Une Vie do nhà sử học người Pháp Alain Ruscio biên soạn.
Đây có thể coi là một quyển tiểu sử đặc biệt về Đại tướng Võ Nguyên Giáp được thể hiện qua các cuộc phỏng vấn của tác giả với Đại tướng trong nhiều năm từ 1979 -2008. Thanh Niên xin trích giới thiệu cuốn sách này.
Alain Ruscio: Trước khi đi vào thời kỳ mà cuộc đời ông gắn chặt với những thời điểm quyết định của lịch sử đất nước – và lịch sử thế giới – tôi muốn ông nhớ lại thời còn trẻ, ông đã lên lớp giảng dạy môn lịch sử, như tôi được biết, đó là tại Trường Thăng Long?
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Đúng là như vậy. Ngôi trường này không có mùi vị thánh thiện gì với nhà cầm quyền thuộc địa. Nhưng phải nói rằng vị Hiệu trưởng là ông Hoàng Minh Giám, một nhà yêu nước chân chính, đảng viên đảng Xã hội và các thầy giáo đứng lớp được xem như – thường là đúng – những người cộng sản, và như thế họ được Sở Mật thám giám sát chặt chẽ, trong đó có cụ Đặng Thai Mai, sau này là ông nhạc tôi…
Và cả chính ông nữa?
Tôi chỉ bị chú ý chút đỉnh thôi.
Chúng ta trở lại vài thập niên nhé. Hãy tưởng tượng tôi là học trò của ông. Ông sẽ dạy tôi những gì về quá khứ của đất nước ông?
Ông hãy nói rất đúng là hãy bắt đầu bằng lịch sử VN, thời gian lâu, rất lâu trước khi tổ tiên người Pháp các ông đến (VN). Ông biết câu: “Lịch sử là mẹ đẻ ra mọi sự thật”. Gần đây chúng tôi đã kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. UNESCO cũng ghi việc kỷ niệm đó vào chương trình hoạt động của họ. Như vậy đã nhấn mạnh đến sự đóng góp của người anh hùng dân tộc của chúng tôi vào nền văn hóa thế giới. Ở VN từ rất sớm đã hình thành một nền văn minh. Người ta có thể nói đến một nền văn minh ra đời trong thung lũng một dòng sông cũng như ở nơi khác ở Mésopotamie chẳng hạn. Trường hợp chúng tôi đó là vùng châu thổ giàu có của con sông Hồng. Ở Mésopotamie cũng như ở nhiều nơi khác đó là theo một chu kỳ cổ điển: phát triển, hưng thịnh và suy tàn. Còn ở đây, nền văn minh sông Hồng, trái lại không ngừng phong phú. Người ta có thể thấy trong thời gian đầu hàng chục bộ lạc sống một cách tự lập trong vùng châu thổ cũng như vùng núi… Nói tự lập không có nghĩa là biệt lập không có liên hệ gì với nhau. Trái lại ở một số thời kỳ lịch sử họ liên minh với nhau cũng có khi tranh giành nhau chiến tranh với nhau. Tuy nhiên tính cách “liên minh với nhau” được khẳng định rõ ràng nhất.
Vì những lý do gì, thưa ông?
Trước hết là phải đoàn kết để đấu tranh với sự thất thường của thiên nhiên, bão lụt đủ các loại, để tạo cuộc sống ít nhiều được ổn định. Chính vì thế mà từ rất sớm chúng tôi đã xây dựng được một hệ thống đê điều, kênh rạch chằng chịt, lao động tập thể không phải là một lựa chọn mà là sự bắt buộc do thiên nhiên áp đặt. Đó chính là điều kiện cơ sở để liên minh, đoàn kết giữa các bộ lạc.
Lý do thứ hai là sức ép từ bên ngoài. Chúng tôi luôn luôn phải sống trước sự đe dọa xâm lược thường xuyên từ phương Bắc. Theo ý tôi đó là nguyên nhân căn bản của việc nền văn minh sông Hồng ra đời từ rất sớm và có sức đề kháng dẻo dai, một trong những nền văn minh đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Tôi muốn chia sẻ một nhận xét của tôi những khi đến làm việc ở đây, tôi rất chú ý đến vai trò của lịch sử luôn luôn hiện hữu trong mỗi phản ứng của dân chúng, trong mỗi văn kiện của Chính phủ, trong mỗi cuộc trò chuyện với những người VN mọi giới, ở bất kỳ trình độ nào học vấn nào có thể nói lịch sử dân tộc đã nhập tâm mỗi con người. Hiện tượng đó nổi bật hơn phần lớn những nước khác mà tôi biết, nhất là ở châu Âu.
Tôi hình dung là ông đã nghiên cứu lịch sử châu Âu thời Trung cổ. Ông đã thấy ở đó nhiều cuộc giao tranh giữa các tập đoàn phong kiến, những vụ chém giết tranh giành lẫn nhau giữa các phe phái. Tính chất dân tộc được khẳng định muộn với những giai đoạn nổi bật như cuộc chiến tranh của Jeanne d’Arc ở nước ông.
Nước VN ra đời từ những cuộc chiến tranh liên miên để bảo vệ sự tồn tại của dân tộc. Các cuộc khởi nghĩa dân tộc, những cuộc chiến tranh dân tộc. Cuộc xâm lược đầu tiên được nói đến trong thư tịch xưa là của Tần Thủy Hoàng ở thế kỷ 3 trước Công nguyên. Cái nôi của nền văn minh Trung Hoa là thung lũng sông Hoàng cách biên giới phía nam ngày nay của Trung Quốc hàng nghìn cây số. Tần Thủy Hoàng đã lần lượt thu phục hàng trăm tiểu vương quốc ở miền nam Trung Hoa và thống nhất lại thành một đế quốc rộng lớn.
Nhưng khi tiếp xúc với nền văn minh Văn Lang, Tần Thủy Hoàng đã vấp phải sự kháng cự của cả một dân tộc. Thư tịch cổ Trung Hoa cũng nói đến điều này: “Dân chúng chống lại. Họ cử ra những người can đảm nhất, thông minh nhất chỉ huy cuộc kháng chiến. Ban ngày họ ẩn nấp nơi kín đáo, ban đêm họ xông ra để đánh lại quân Tần”. Thư tịch xưa cũng nêu rõ con số người chết trong hàng ngũ quân đội nhà Tần là rất lớn. Cuối cùng quân Tần lần đầu tiên bị thua.
Video đang HOT
Thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, đất nước tôi bị phong kiến phương Bắc đô hộ kéo hơn một nghìn năm. Thời gian đô hộ quả là rất dài và có lẽ quá đủ để đồng hóa cả một thực thể chính trị không được bám sâu trong dân tộc. Vậy mà người ta nhận thấy việc đồng hóa đã không thực hiện được. Trong hơn một nghìn năm đó, dân tộc chúng tôi từ trước cuộc chinh phục đã được khẳng định, thay vì bị hòa tan. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên do hai chị em họ Trưng vào đầu thế kỷ 1 sau Công nguyên. Đặc điểm của cuộc khởi nghĩa này là mang tính chất nhân dân. Thư tịch Trung Quốc cũng miêu tả cho chúng ta biết cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lan rộng khắp 65 huyện, thành, tức là hầu hết vùng châu thổ – khắp cả nước.
Cuối cùng vào thế kỷ 10 đã có cuộc tiến công có tính quyết định chống lại kẻ chiếm đóng. Năm 905, toàn thể dân chúng một lần nữa nổi lên và Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng, một nhà hiền triết, được toàn dân kính trọng tôn làm người đứng đầu chính quyền tự chủ. Mấy năm sau một tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đánh đuổi người Trung Quốc ra khỏi đất nước. Nhưng ông bị nội phản ám hại, con rể là Ngô Quyền kéo quân về kinh đô một lần nữa đánh đuổi quân nhà Hán định lấy lại vùng châu thổ. Có lẽ ông đã biết chuyện chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938. Ngô Quyền đã cho cắm xuống cửa sông những cọc to vót nhọn. Khi chiến thuyền quân Nam Hán tiến gần vào lúc thủy triều lên Ngô Quyền giả thua rút chạy. Quân Nam Hán thừa thắng đuổi theo. Khi thủy triều xuống Ngô Quyền đã quay lại và phản công mãnh liệt. Quân Nam Hán cố chạy trốn nhưng thuyền chiến của họ đâm vào cọc đều bị đắm cả.
(Còn tiếp)
Theo TNO
Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Năm tháng và cuộc đời
Năm 1925-1926: Tham gia vào phong trào học sinh ở Trường Quốc học Huế.
Năm 1929: Vào Đảng Tân Việt cách mạng, cùng một số đồng chí cải tổ Đảng Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (lúc đầu là Việt Nam Cộng sản Liên đoàn). Tham gia viết Báo Tiếng Dân.
Năm 1930: Bị bắt trong vụ cứu tế Nghệ An đỏ ở nhà in Báo Tiếng Dân, bị kết án 2 năm tù. Ra tù mất liên lạc với tổ chức; một thời gian sau ra Hà Nội dạy học ở Trường Thăng Long, tuyên truyền và gây cơ sở cách mạng trong thanh niên học sinh, tiếp tục học thêm cho đến đại học.
Từ năm 1936: Tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ, ở trong Ban lãnh đạo nửa hợp pháp của Đảng, lãnh đạo phong trào thanh niên, học sinh ở Hà Nội.
Thành lập Báo Hồn trẻ, cùng một số đồng chí sáng lập và biên tập các báo Le Travail (Lao động), báo Notre voix (Tiếng nói chúng ta), báo En avant (Tiến lên), báo Rassemblement (Tập hợp), viết báo Đời nay, Tin tức, Thời báo, Cờ giải phóng.
Tham gia phong trào Đông Dương Đại hội, được cử làm Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân thăm lại Điện Biên năm 2004 - Ảnh: Việt Dũng
Năm 1940: Được Đảng cử ra nước ngoài gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 6.1940: Làm thủ tục kết nạp vào Đảng. Được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giới thiệu đi Diên An, giữa đường được chỉ thị trở về Quế Lâm hoạt động ở biên giới Trung - Việt. Về nước, cùng ở với Bác Hồ tại Pác Bó. Sau Hội nghị T.Ư lần thứ 8, được giao nhiệm vụ vận động đồng bào ở Hòa An và Nguyên Bình, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, lập ra những xã hoàn toàn, châu hoàn toàn (hoàn toàn tham gia Việt Minh).
Năm 1941: Tham gia công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và xây dựng căn cứ địa ở Cao-Bắc-Lạng.
Năm 1942: Phụ trách Ban Xung phong Nam Tiến, tuyên truyền giác ngộ nhân dân, tổ chức con đường quần chúng từ Cao Bằng về Thái Nguyên.
Tháng 12.1944: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Tháng 4.1945: Tại Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, được cử vào Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ.
Tháng 5.1945: Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Tháng 6.1945: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng.
Tháng 8.1945: Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, được bầu vào Ban Chấp hành T.Ư. Sau đó được cử vào Ban Thường vụ Ban Chấp hành T.Ư và Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, khi thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bí thư Đảng - Đoàn Chính phủ.
Tháng 1.1946: Đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (liên tiếp là đại biểu các khóa II, III, IV, V, VI, VII).
Tháng 3.1946: Chủ tịch quân sự ủy viên Hội trong Chính phủ liên hiệp.
Khi thành lập Quân ủy T.Ư là Bí thư Quân ủy T.Ư.
Tháng 11.1946: Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ mới. Trước ngày toàn quốc kháng chiến, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam.
Năm 1948: Được phong quân hàm Đại tướng.
Tháng 2.1951: Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, được bầu vào Ban Chấp hành T.Ư, được T.Ư cử vào Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy T.Ư.
Tháng 9.1955: Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 9.1960: Tại Đại hội lần thứ III của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành T.Ư, được cử vào Bộ Chính trị, tiếp tục làm Bí thư Quân ủy T.Ư.
Tháng 4.1976: Là Đại biểu Quốc hội khóa VI nước CHXHCN Việt Nam. Được cử làm Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Bác Hồ đang giao nhiệm vụ cho Đại tướng - Ảnh: TTXVN
Tháng 12.1976: Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng được bầu lại vào Ban Chấp hành T.Ư và được T.Ư cử vào Bộ Chính trị. Tiếp tục làm Bí thư Quân ủy T.Ư cho đến năm 1978.
Tháng 1.1977: Được phân công làm Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, phụ trách quốc phòng và khoa học kỹ thuật.
Tháng 1.1980: Được phân công làm Phó thủ tướng, tiếp tục phụ trách khoa học và kỹ thuật, tháng 12 năm ấy phụ trách thêm công tác khoa giáo (phụ trách khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội).
Tháng 4.1981: Đại biểu Quốc hội khóa VII, được cử lại làm Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 3.1982: Đại hội lần thứ V của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành T.Ư Đảng.
Là Phó thủ tướng phụ trách công tác khoa học và công tác giáo dục đào tạo và chỉ đạo công tác nghiên cứu dự báo chiến lược khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội.
Từ 1992 đến nay: Chủ tịch Danh dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Chủ nhiệm đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam", kiêm cố vấn chương trình khoa học cấp nhà nước và "Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh".
Chủ tịch Danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Chủ tịch Danh dự Hội Khuyến học Việt Nam.
Chủ tịch Danh dự Quỹ hỗ trợ sáng tạo khoa học kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC).
Chủ tịch Danh dự Hội Cựu giáo chức Việt Nam.
Theo TNO
Những điều chưa biết về mối tình đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp Tuổi 20, Đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên gặp Nguyễn Thị Quang Thái trong chuyến tàu Vinh-Huế, rồi sau này trở thành người yêu, thành vợ ông. Đại tướng nói chuyện với đồng bào Điện Biên năm 2004. Ảnh: Đoàn Hoài Trung. Tuổi 20, ông Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên gặp Nguyễn Thị Quang Thái (em gái ruột của nhà...