Gian nan đường vào bản “ngủ ngồi”
Xe máy ì ì leo dốc rồi đột ngột “âm côn” thả xuống chân đèo. Đường vào bản của người Đan Lai như đi trên mây. Khách cảm nhận hết mọi cung bậc cảm xúc khi băng đèo, lội suối, lắm lúc chỉ dám nhắm tịt mắt lại, phó thác tính mạng cho người cầm lái.
Đường vào vùng lõi vườn Quốc gia Pù Mát – nơi sinh sống của người Đan Lai phải vượt qua những cung đèo quanh co, dốc đứng.
Sau nhiều lần lỡ hẹn tôi cũng được tổ công tác Đội quản lý hành chính Công an huyện Con Cuông (Nghệ An) cho đi cùng vào Khe Khặng, thuộc vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, nơi sinh sống của đồng bào Đan Lai. Dù trung sỹ Nguyễn Cảnh Thưởng cảnh báo “đường cực kỳ khó đi” nhưng tôi vẫn không mường tượng nổi chặng đường dài hơn 30km từ trung tâm xã Môn Sơn vào bản “ngủ ngồi” lại gian nan đến vậy.
Đan Lai là một nhóm người nhỏ sinh sống chủ yếu trong rừng sâu thuộc vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát. Chuyện kể rằng, bạo chúa Hoa Quân yêu cầu dòng họ Lê ở làng Đan Nhiệm (Thanh Chương, Nghệ An) kiếm 100 cây nứa bằng vàng và một con thuyền liền mái. Nếu không tìm được cả họ phải chịu tội. 100 cây nứa bằng vàng, 1 con thuyền liền mái là điều không tưởng đối với dòng họ Lê này.
Sợ b.ị giế.t, đoàn người họ Lê bồng bế nhau chạy trốn vào rừng sâu và hình thành một tộc người mới – tộc người Đan Lai. Do quá trình chạy trốn bạo chúa nên người Đan Lai phải ngủ ngồi, tay đỡ lấy trán hoặc sử dụng cây chàm ngam đỡ dưới cổ để khỏi ngã, bởi vậy người Đan Lai còn được gọi là “tộc người ngủ ngồi” hoặc “ngủ chạng”.
Người Đan Lai ở xã Môn Sơn (Con Cuông, Nghệ An) tập trung tại các bản Khe Búng, Cò Phạt, Bản Cồn và một vài điểm bản lẻ bên cạnh dòng Khe Khặng – một nhánh của dòng sông Giăng. Từ trung tâm xã Môn Sơn vào bản xa nhất (bản Khe Búng) khoảng hơn 30km đường chim bay.
Một góc bản lẻ của người Đan Lai trong ánh chiều tà.
Thượng úy Ngân Văn Vinh – Đội quản lý hành chính Công an huyện Con Cuông, người bản Nam Sơn (xã Môn Sơn) là người to khỏe nhất tổ, lại là dân bản địa nên được phân công chở tôi. Thiếu úy Nguyễn Quang Liêng, trung sỹ Nguyễn Cảnh Thưởng và công an viên xã Môn Sơn Vi Viết Trại có nhiệm vụ chở theo lương thực, tài liệu, giấy tờ vào bản để làm chứng minh thư cho người dân.
Qua khỏi cầu treo sông Giăng 1, chúng tôi bắt đầu hành trình để vào với đồng bào Đan Lai. 4 chiếc xe máy bắt đầu những đợt leo dốc, đổ đèo liên tiếp nhau. “Đây là con đường tuần tra của lực lượng kiểm lâm Vườn quốc gia Pù Mát mới mở được gần chục năm thôi. Trước chưa có đường, chúng tôi phải đi bộ hoặc thuê thuyền men theo dòng nước sông Giăng, Khe Khặng để đi”, anh Vinh cho biết.
Con đường ngoằn nghèo, nhìn từ trên cao xuống tôi đã thấy ngợp khi bóng người phía dưới chân đèo chỉ nhỏ xíu như cái chấm giữa mênh mông rừng núi. Anh Vinh cười bảo nếu đường này được đầu tư để làm đường đua công thức 1 thì biết đâu, đây sẽ là cơ hội để rút ngắn khoảng cách của người Đan Lai với bên ngoài hay chí ít cũng giúp Môn Sơn phát triển kinh tế dịch vụ phục vụ đoàn đua.
Video đang HOT
Con đường đất đầy sống trâu thách thức bất kỳ tay lái nào.
Nhìn con đường ngoằn ngoèo như sợi chỉ vắt từ quả đồi này qua quả đồi khác, uốn lượn, gấp khúc như sợi dây rừng rõ ràng là lợi thế để hình thành một đường đua mạo hiểm. Nếu con đường này được đầu tư như anh Vinh nói thì biết đâu, đồng bào nơi đây sẽ trở thành những tay đua cừ khôi chẳng kém bất cứ một tay đua chuyên nghiệp nào.
Đoàn xe 4 chiếc, lúc leo dốc chỉ nghe tiếng động cơ ì ì, anh Vinh liên tục đổi từ số 2 sang số 1 để xe đi lên. Chiếc xe “bò” được lê.n đỉn.h dốc thì được tắt máy để “trôi” xuống. Thiếu úy Nguyễn Quang Liêng cười: “Tắt máy cho đỡ tốn xăng. Chân rà phanh nếu không muốn phi xuống vực. Lên dốc không nguy hiểm bằng xuống dốc. Xe trước và xe sau phải giữ một khoảng cách nhất định để không may có sự cố không b.ị đâ.m nhèo vào nhau. Chị đi chuyến này là may đấy. Hôm qua có mưa nhưng không đáng kể, đường chỉ ướt chứ không sục quánh như lần trước tổ công tác vào”.
Tôi ngồi trên xe, thỉnh thoảng phải nhắm tịt cả mắt vì cảm giấc bị “hẫng” khi xe đổ đèo. Gặp những con dốc cao quá, tôi phải xuống cuốc bộ để anh Vinh đi xe một mình. Đến dốc Cây Kè (bản Cò Phạt) xe đổ đèo. Nhìn con dốc hun hút, hằn đầy vệt bánh xe tôi đành lựa chọn phương án men theo vách núi để đi bộ xuống. “Lần trước, 3 anh em vào đây trúng ngày mưa, dốc này xe không chạy được. Anh em phải dùng gậy thọc qua xe để đẩy lên dốc. Ì ạch hơn 1 tiếng đồng hồ mới qua được dốc này”, trung sỹ Nguyễn Cảnh Thưởng kể.
Chỉ những chiếc xe có máy thật khỏe mới dám vượt khe để vào Khe Khặng.
Qua bản Cò Phạt, anh Vinh quyết định đi bộ. Từ đây vào bản Khe Búng phải lội qua 5 con khe, sợ xe không qua được. Thưởng và Liêng dồn tài liệu qua một xe, quyết định vượt khe. Liêng vác ba lô giấy tờ lên vai, lội qua khe trước. Thưởng rồ ga phi qua khe nước ngang bắp đùi. Chiếc xe lao xuống, ống xả sôi lên ùng ục, xe bị nước cuốn đi, Thưởng dùng cả hai chân “bơi” cùng xe, bị đẩy xuống một quãng mới sang được bờ bên kia. Chúng tôi chính thức chia làm 2 đoàn. Tôi, anh Vinh và Trại đi bộ.
Ba anh em ba lô vác vai, bắt đầu cuộc hành quân. Tôi tháo giày lội suối, anh Vinh và Trại phải thay nhau làm cọc tiêu cho tôi bám để khỏi bị nước tống đi. Nước Khe Khặng mùa khô, chỉ ngang bắp đùi nhưng chảy xiết, thỉnh thoảng bị người dân chặn lại để đặt tua pin phát điện. 3 cây số đường rừng, hết lội suối, xuyên qua bản làng rồi lại men theo khe. Tôi tháo giày cầm tay, chân buốt nhói vì đá cuội, vì nắng nóng.
Tôi trầy trật từng bước khiến hành trình của 3 anh em chậm hơn dự kiến. Trại cởi quần dài vắt lên vai, bận quần đùi lội. Anh Vinh kinh nghiệm hơn, mặc quần sóoc còn tôi ướt nhẹp lếch thếch vùa đi vừa chạy theo, thỉnh thoảng hai người phải đứng lại chờ.
Con đường quanh co men theo dòng Khe Khặng lổn nhổn đất đá.
10h trưa, chúng tôi với vào đến nơi. Làm việc cật lực, 2h30 chiều mới kịp ăn rồi lại làm việc. 5h30 hành quân ra bản Cò Phạt để sáng mai kịp cấp giấy CMTND cho đồng bào. Rừng sẫm màu rồi tối hẳn, ba anh em mồm miệng thi nhau thở. Bóng tối đặc quánh bao quanh, tôi không bước nổi, Trại phải mang hộ ba lô. Tôi nhặt một cây gậy ven đường để chống. Hành trình lại tiếp tục với việc leo dốc, đổ đèo, lội suối.
Lắm lúc tôi muốn dừng lại, muốn bỏ cuộc nhưng bóng tối đặc quánh, tiếng thú rừng, tiếng chim tắc tắc vang lên nghe rợn người. “Nếu không cố, không ra được bản Cò Phạt thì phải ngủ giữa rừng, chỉ tổ làm mồi cho vắt và mằn hăn (một loại muỗi) thôi”, Trại bảo. Tôi chống gậy lê đôi chân mỏi nhừ, đau nhức bước từng bước khó nhọc. Gần 8h tối, 3 anh em mới ra đến Cò Phạt.
Ăn vội bát cơm các anh kiểm lâm chuẩn bị, tôi nằm vật ra giường. Đêm Cò Phạt chập chờn ánh điện tua pin, chỉ có chiếc đài bán dẫn nối chúng tôi với thế giới bên ngoài. Giấc ngủ mê mệt kéo đến. Đêm đầu tiên với đồng bào Đan Lai không phải ngủ ngồi…
Hoàng Lam
Theo dantri
Rợn người đi qua cầu treo, dây cáp
Tại miền Trung và Tây Nguyên, hàng loạt cầu tạm, cầu treo, dây cáp được người dân qua lại hằng ngày đang là mối đ.e dọ.a thường trực tới tính mạng của họ.
Hai ngày qua, người dân thôn Tiến Thành, xã Tam Tiến, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam không khỏi bàng hoàng trước cái chế.t của bà Nguyễn Thị Đồi, SN 1972. Bà Đồi là nạ.n nhâ.n mới nhất của cây cầu "vĩnh biệt" bắc qua sông Trường Giang ở địa phương này.
Thót tim qua cầu "vĩnh biệt"
Ông Mai Xuân Hùng, trưởng thôn Tiến Thành, cho biết, bà Đồi có con trai học lớp 11 nhưng đã nghỉ vì không có tiề.n, phải lên Tây Nguyên làm thuê để phụ giúp gia đình. Một mình bà Đồi ở nhà làm nông và đi mua lá chuối về gói bánh bán. Sáng 19/8, khi đi mua lá chuối, bà chạy xe gắn máy đến đoạn giữa cầu Máng thì bị ngã văng xuống sông chế.t đuố.i.
Theo ông Hùng, cầu Máng dài gần 300m, thực chất là máng thủy lợi xây vào năm 1985 nhằm đưa nước về tưới tiêu cho 30ha lúa. Từ khi đưa vào sử dụng, người dân xem máng thủy lợi này như một cây cầu để lưu thông ra quốc lộ. Từ đó đến nay, đã có 16 người chế.t, gồm 10 người ngã từ trên cầu xuống và 6 người bị chìm thuyền do va đậ.p với cầu. Chính vì có nhiều cái chế.t thương tâm nên người dân gọi cầu Máng là cầu "vĩnh biệt" hay cầu "tử thần".
Cầu treo ở thôn Gọi Re, xã Ba Xa, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Tử Trực.
Ông Hùng cho biết, sau nhiều vụ chế.t người liên tiếp, Công ty Khai thác thủy lợi Quảng Nam đã đầu tư gần 50 triệu đồng để xây dựng trụ và kéo dây cáp hai bên thành cầu Máng. Tại 2 đầu cầu, công ty cắm bảng khuyến cáo: "Công trình thủy lợi không kết hợp giao thông, nguy hiểm, cấm đi xe máy". Tuy nhiên, nhiều người vẫn đi qua cầu.
Đi bộ qua cầu, nhìn dòng nước xiết cuồn cuộn chảy bên dưới, chúng tôi nổi da gà nhưng nhiều người dân vẫn chạy xe máy bon bon. Ông Trần Văn Hòa, Phó Chủ tịch UBND xã Tam Tiến, cho biết, mỗi ngày có hàng trăm lượt người qua lại, trong đó có rất nhiều học sinh. Xã nhiều lần kiến nghị mở rộng diện tích, tu bổ cầu. Cơ quan chức năng huyện, tỉnh cũng về khảo sát rồi nói... thiếu kinh phí.
Ông Nguyễn Văn Nhân, Giám đốc Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Nam, cho biết, sẽ kiểm tra thực trạng cây cầu này để xem xét, bố trí vốn sửa chữa, nâng cấp. Không chỉ cầu "vĩnh biệt", tỉnh Quảng Nam còn có rất nhiều cầu treo, cầu khỉ xuống cấp, nguy hiểm cần tu bổ. Nhu cầu rất lớn trong khi khó khăn về vốn nên buộc phải làm từng bước, nơi nào cấp bách thì làm trước.
Điệp khúc không tiề.n
Trong những ngày này, dù nắng ráo, nước sông Re ở Quảng Ngãi không quá hung dữ nhưng chúng tôi vẫn rợn người khi đi qua cây cầu treo lơ lửng giữa lưng chừng đồi. Cầu này là con đường duy nhất nối thôn Gọi Re, xã Ba Xa, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi với bên ngoài để hàng trăm hộ dân đi lại.
Cây cầu được người dân địa phương dùng dây thép, dây kẽm buộc vào thân cây giữa hai đầu vách núi, vắt vẻo qua sông Re. Người qua lại phải nắm thật chặt dây kẽm được dùng làm thành cầu, dò dẫm từng bước trên những tấm ván gỗ lồ ô.
Bà Võ Thị Bích Lê, Phó Chủ tịch UBND xã Ba Xa, lo ngại: "Mùa mưa, nước sông chảy xiết, dân chịu cảnh cô lập. Hằng ngày, học sinh qua cầu hết sức nguy hiểm. Cũng có nhiều vụ rơi xuống cầu nhưng may mà chưa gây thương vong". Theo bà Lê, hiện cầu xuống cấp nghiêm trọng nhưng địa phương không có tiề.n nên chưa sửa chữa.
Ông Lê Hàn Phong, Chủ tịch UBND huyện Ba Tơ, cho biết, nhiều nơi khác cũng qua lại trên những chiếc cầu tạm xuống cấp, hư hỏng. "Muốn xây cây cầu kiên cố cũng cần ít nhất 15-20 tỉ đồng. Nhiều lần huyện kiến nghị tỉnh cấp kinh phí nhưng nguồn kinh phí eo hẹp nên chưa thể bố trí được" - ông Phong băn khoăn.
Sống cảnh "Tarzan"
Gần chục năm qua, hàng ngàn hộ dân ở xã Ea Huar, huyện Buôn Đôn và xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk vẫn bất chấp nguy hiểm, vượt các con sông để đến nương rẫy bằng dây cáp chằng néo vào 2 thân cây trên bờ và một chiếc lồng sắt. Việc cáp đứt hay tuột chân rơi xuống sông xảy ra thường xuyên nhưng không còn cách nào khác, họ đành đán.h cược mạng sống của mình để đi lại mưu sinh, học hành.
Cách đây mấy ngày, gia đình anh Nguyễn Văn Tiêu (ngụ thôn 7, xã Ea Huar) đã gặp nạn khi dây cáp đứt. Hôm đó, anh Tiêu cho vợ và đứa con 7 tuổ.i qua sông trước. Khi ròng rọc đang lao vun vút thì bất ngờ dây sắt đứt, vợ và con anh Tiêu rơi xuống lòng sông chảy xiết.
Việc đứt dây kiểu này không phải là chuyện hiếm. Mới đây, ngày 15/8, bà Nguyễn Thị Thọ (SN 1962, ngụ xã Hòa Lễ) đu dây qua sông để đi làm thì bị rơi xuống mép sông Krông Ana từ độ cao khoảng 10 m. Do lúc này vắng người qua lại nên phải khoảng 1 giờ sau, người dân mới phát hiện bà Thọ nằm bất tỉnh và đưa đi bệnh viện cấp cứu với nhiều vết thương ở vai, cổ, chệch quai hàm, mẻ đốt sống...
Chứng kiến cảnh người dân qua sông mà chúng tôi không khỏi rùng mình, lo lắng bởi sợi dây sắt mỏng manh và sợi cua-roa có thể bị đứt bất cứ lúc nào, trong khi bên dưới là dòng sông nước chảy cuồn cuộn...
Đề án xây dựng 186 cầu treo dân sinh ở 28 địa phương đã được Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt, thời gian hoàn thành trong năm 2015 nhưng không thấm tháp vào đâu so với nhu cầu thực tế.
Theo Khampha