Giải mật về bộ đôi tàu ngầm mini của Việt Nam
Ít ai biết được rằng trong thập niên 90 của thế kỷ trước và những năm đầu thế kỷ này, Việt Nam đã từng sở hữu bộ đôi tàu ngầm mini, loại tàu hiện nay vẫn còn trong biên chế hải quân Triều Tiên và Iran.
Giáo sư Carlyle A.Thayer là nhà nghiên cứu quân sự – chính trị nổi tiếng người Australia, giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Australia ở Canberra và là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Ohio (Mỹ) về môn Đông Nam Á học.
Theo tài liệu nghiên cứu xuất bản hồi năm 2009 với tiêu đề: “Vietnam People’s Army: Development and Modernization” (Con đường phát triển và hiện đại hóa của Quân đội Nhân dân Việt Nam) của mình, giáo sư Thayer cho biết, Việt Nam đã nhận hai tàu ngầm cỡ nhỏ lớp Yugo của Triều Tiên trong một vụ đổi gạo lấy vũ khí vào năm 1997.
Thông tin này chính thức được xác nhận trong một bài báo đăng trên báo “Tuổi Trẻ” tháng 1-2010. Đơn vị tàu ngầm đầu tiên của Việt Nam đóng tại căn cứ Cam Ranh (Khánh Hòa) ra đời từ năm 1996, nhưng vì “bí mật quân sự” nên mãi đến sau này, đoàn M96 mới công bố một số thông tin về loại tàu ngầm này.
Hình ảnh chiếc tàu ngầm đăng tải trên báo Tuổi Trẻ tháng 1/2010
Báo Tuổi Trẻ viết: “Chính xác thì Đoàn M96 hải quân được thành lập vào ngày 2.8.1996, nhưng gần một năm sau mới tiếp nhận những chiếc tàu ngầm đầu tiên từ một nước bạn”, nhưng không nêu tàu ngầm đầu tiên này là của nước nào. Còn trong một bài viết ngày 20-2-2012 trên Website Học viện Hải quân Mỹ, ông Thayer đã tái khẳng định đây là một tàu ngầm lớp Yugo (Una) của Triều Tiên.
Tàu ngầm Una của Triều Tiên được NATO gán cho cái tên là Yugo vì được sản xuất ở Nam Tư vào năm 1965, từ Yogo xuất phát từ cái tên Yugoslavia (Nam Tư – năm 2010 Montenegro cũng ngừng sử dụng toàn bộ tàu ngầm lớp Yugoslav-Era). Tàu ngầm lớp Yugo có lượng giãn nước nước 90 tấn khi nổi và 110 tấn khi lặn, với chiều dài 20m, rộng 3,1m, cao 4,6m, lặn sâu 120m.
Tàu sử dụng 1 động cơ đơn diesel MTU 320 mã lực, 1 động cơ điện dự bị và 1 động cơ dự bị (chạy ắc quy), giúp tàu đạt tốc độ tối đa vào khoảng 19 km/h khi nổi và 14 km khi lặn. Yugo trang bị 2 ống phóng ngư lôi loại 406mm, và biên chế 4 thủy thủ cùng từ 6 đến 7 lính đặc công nước (người nhái).
Tàu ngầm lớp Yugoslav-Era của Montenegro
Hải quân Triều Tiên có tổng cộng 8 chiếc tàu ngầm lớp này, hiện 1 chiếc đã nghỉ hưu và 1 chiếc tai nạn đã ngừng sử dụng, 2 chiếc bàn giao cho Việt Nam, nên tính đến năm 2012 họ còn vận hành 4 chiếc tàu loại này. Dựa trên thiết kế của Una, hải quân Triều Tiên đã nghiên cứu phát triển lớp tàu ngầm mini mới là Sang-O.
Trong lực lượng hải quân Iran cũng có một số lượng không nhỏ tàu ngầm mini lớp này. Hiện Iran có khoảng hơn 20 chiếc tàu ngầm mini thuộc 2 lớp Yugo và Ghadir (phiên bản Yugo do Iran tự chế tạo), trong đó 16 chiếc lớp Ghadir chuyên dụng để bảo vệ dải bờ biển Iran và eo biển Hormuz.
Tàu ngầm mini lớp Ghadir (mô phỏng lớp Yugo của Triều Tiên) có lượng giãn nước 120 tấn
Các chuyên gia quân sự nhận định rằng hai chiếc tàu ngầm mini lớp Yugo dường như chỉ được Việt Nam sử dụng trong các hoạt động lặn và để hiểu thêm về cơ chế hoạt động cũng như bảo trì tàu ngầm. Theo một số nguồn tin, tàu ngầm Yugo được chuyển giao cho Việt Nam đã ngừng hoạt động trong năm 2012.
Video đang HOT
Việc nhận tàu ngầm lớp Yugo cho thấy đây là giai đoạn đầu tiên trong chiến lược phát triển năng lực dưới biển lâu dài của Việt Nam. Kinh nghiệm vận hành tàu ngầm mini đã cung cấp cho hải quân Việt Nam những nền tảng hiểu biết cơ bản về vận hành và bảo trì tàu ngầm.
Theo ANTD
ICBM: Quyền trượng răn đe tuyệt đối của những kẻ mạnh
Tháng 8/1957, Liên Xô đã lần đầu tiên phóng thành công một tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) R-7 Semyorka (NATO gọi là SS-6 Sapwood) có tầm phóng hơn 8000km, đem lại cho người Liên Xô một năng lực tấn công hạt nhân tầm xa hoàn toàn mới, làm thay đổi cán cân vũ khí chiến lược Xô-Mỹ. Sau đó, đến năm 1959, Mỹ cũng trang bị cho mình loại ICBM đầu tiên thế hệ SM-65 Atlas. Kể từ đó, thế giới bắt đầu bước vào lịch sử hơn 50 năm phát triển ICBM.
Hơn 50 năm qua, ICBM đã phát triển đến thế hệ thứ 5 và ngày càng được nhiều nước nghiên cứu, phát triển. Theo Viện Nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm SIPRI hiện có 8 quốc gia đang sở hữu tên lửa đạn đạo liên lục địa là Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Israel, còn Triều Tiên được coi là có thể đã có hoặc tiềm tàng khả năng phát triển thành công loại tên lửa chiến lược này và cũng có dấu hiệu cho thấy Iran đang âm thầm phát triển ICBM.
Lịch sử phát triển của ICBM
Thế hệ thứ nhất: Đầu đạn đơn, nhiên liệu lỏng
ICBM thế hệ thứ nhất là chỉ thế hệ tên lửa P-7 (R-7) do Liên Xô nghiên cứu, chế tạo thành công vào cuối thập niên 50 của thế kỷ 20 cùng với thế hệ tên lửa vượt đại châu SM-65 Atlas và LGM-25 Titan của Mỹ. Chúng đã biến giấc mơ tên lửa vượt đại châu của nhân loại từ không thành có. Tuy nhiên, thời đó tính năng của các loại tên lửa này vẫn còn rất kém.
ICBM thế hệ thứ nhất áp dụng công nghệ nhiên liệu lỏng, thời gian chuẩn bị phóng rất lâu, trọng lượng phóng tối đa chỉ được 122 tấn. Sức công phá của đầu đạn đơn chỉ tương đương 5 triệu tấn TNT, độ chính xác rất kém, sai số vòng tròn đồng tâm (CEP) ước chừng 10km.
Thế hệ thứ 2: Nhiên liệu rắn, tầm phóng xa hơn
Sự ra đời của thế hệ ICBM sau đã khắc phục được những nhược điểm của thế hệ ICBM trước là sử dụng nhiên liệu lỏng dẫn đến tầm bắn ngắn, tải trọng tên lửa lớn, thời gian phản ứng lâu.
LGM-118 Peacekeeper được phóng lên từ hầm tên lửa
Các loại tên lửa tiêu biểu như LGM-25C Titan-II, LGM-30 Minuteman-I/II của Mỹ và R-16 (NATO: SS-7 Saddler), R-9 Desna (NATO: SS-8 Sasin) của Nga đều chuyển sang dùng nhiên liệu rắn, trọng lượng phóng giảm xuống còn khoảng 80 tấn, tầm phóng đã lên tới 11.000km. Một đặc điểm mới là các giá phóng tên lửa trên mặt đất cũng đã được chuyển xuống dưới các hầm phóng ngầm dưới mặt đất (silo).
Trong giai đoạn này, các đầu đạn hạt nhân gắn trên ICBM đã được tăng cường thêm các thiết bị xuyên phá, nâng cao độ chính xác, uy lực tấn công, tính hiệu quả và độ tin cậy. Độ sai lệch của thế hệ tên lửa này đã giảm xuống tầm hàng trăm mét chứ không còn lệch từ vài km đến 10km như thế hệ trước đó.
Thế hệ thứ 3: Đa đầu đạn tập trung, năng lực xuyên phá rất mạnh
Theo đà phát triển của ICBM, vào thập niên 70 của thế kỷ 20, các hệ thống phòng thủ tên lửa cũng bắt đầu xuất hiện. Vì vậy, thế hệ ICBM thứ 3 ra đời nhằm tăng cường khả năng xuyên phá qua các hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo.
Các loại tên lửa R-36 (NATO: SS-9 Scarp)và RS-10 (NATO: SS-11 Sego) của Liên Xô cùng với tên lửa Minuteman-3 của Mỹ đều được thiết kế với định hướng đa đầu đạn tập trung. Khi tên lửa bay đến một địa điểm đã định, nó sẽ tự động bung đầu đạn mẹ và phóng toàn bộ các đầu đạn con, tấn công đồng loạt vào mục tiêu. So với đầu đạn đơn của thế hệ trước đó, thiết kế đa đầu đạn giúp ICBM có khả năng xuyên phá rất mạnh qua các hệ thống đánh chặn, tăng cường hiệu quả sát thương các mục tiêu mặt đất.
Lắp đặt đầu đạn hạt nhân vào tên lửa LGM-118 Peacekeeper
Thế hệ thứ 4: Đa đầu đạn phân hướng, một tên lửa tấn công nhiều mục tiêu
Ngay sau khi các ICBM kiểu đa đầu đạn tập trung ra đời, nó đã bộc lộ những nhược điểm như: các đầu đạn con vẫn bay theo quán tính, độ chính xác kém dẫn đến hao tổn nhiều đầu đạn, không phù hợp tấn công các mục tiêu dạng điểm hoặc nằm rải rác. Vì vậy, cuối những năm 1970, Mỹ và Liên Xô bắt đầu triển khai nghiên cứu các đầu đạn đa phân hướng (MIRV).
Không giống với thế hệ đầu đạn thứ 4, phóng toàn bộ các đầu đạn con để tấn công mục tiêu, đầu đạn mẹ kiểu đa phân hướng có khả năng căn cứ vào trình tự đã định để lần lượt phóng ra các đầu đạn con, tấn công từ nhiều hướng. Kiểu đầu đạn này làm cho 1 tên lửa có thể tấn công chính xác vào nhiều mục tiêu cách nhau một cự ly nhất định hoặc cũng có thể chia làm nhiều hướng tấn công vào 1 mục tiêu.
Đại diện tiêu biểu cho thế hệ này là tên lửa MR-UR-100 Sotka (NATO: SS-17 Spanker), RS-20V "Voyevoda-M" (SS-18 Satan), RS-18 (SS-19 Stiletto), RT-21M Pioneer (SS-20 Saber) của Liên Xô và tên lửa MGM-31B Pershing II của Mỹ. Theo đà phát triển của công nghệ điều khiển, dẫn đường chính xác, độ chính xác của thế hệ tên lửa này đã được nâng lên một tầm cao mới, sai số mục tiêu chúng đã hạ xuống chỉ còn dưới 100m.
Thế hệ thứ 5: Nhỏ gọn và cực kỳ chính xác
Khi các hệ thống phòng thủ tên lửa ngày càng được xây dựng vững chắc, ICBM cũng bắt đầu bước vào thế hệ thứ 5, trọng tâm nghiên cứu phát triển của thế hệ này không còn là uy lực và tầm bắn nữa mà đã chuyển sang sức xuyên phá và khả năng sinh tồn của đầu đạn.
Tên lửa liên lục địa Topol của Nga
Các cường quốc tập trung vào các mẫu tên lửa có kích thước và trọng lượng nhỏ, triển khai đa dạng trên mọi phương tiện cơ động đường bộ, đường sắt và tàu ngầm. So với các thế hệ trước, uy lực tấn công của các đầu đạn có giảm đi nhưng khả năng đột phá và độ chính xác càng ngày càng cao, thậm chí có thể còn trực tiếp tấn công trúng một giếng phóng tên lửa của đối phương.
Trong kỷ nguyên này, dường như người Nga đã đi trước Mỹ một bước khi liên tục cho ra mắt các loại tên lửa phóng từ mặt đất như RS-12M "Topol-M" (SS-27 Sickle), RS-24 Yars (SS-29), RS-26 Rubezh; tên lửa phóng từ tàu ngầm Bulava, tên lửa phóng từ bệ phóng ngầm dưới đáy biển Rowing. Người Mỹ tuy đi sau nhưng cũng không chịu lạc hậu khi nghiên cứu ra tên lửa đạn đạo cơ động trên đường sắt LGM-118 Peacekeeper (đã loại biên năm 2005) và tên lửa có khả năng phóng khi đang cơ động trên xe vận tải bánh lốp MGM-134A Midgetman.
ICBM sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng
Để được công nhận là ICBM, ít nhất các tên lửa phải đạt được tầm phóng trên 5500km. Có rất nhiều nút thắt công nghệ trong quá trình phát triển loại tên lửa này nhưng quan trọng nhất là công nghệ tên lửa đẩy và công nghệ điều khiển, dẫn đường. Ngoài ra, nó cũng đòi hỏi một số tính năng quan trọng khác như: Khả năng xuyên phá, số lượng đầu đạn hạt nhân mang theo, khả năng bảo vệ đầu đạn hạt nhân khi tái xâm nhập tầng khí quyển...
Sơ đồ tái nhập khí quyển của các tên lửa liên lục địa mang đầu đạn MIRV
Minh họa các giai đoạn phóng của tên lửa đạn đạo liên lục địa như sau:
1: Khởi đầu giai đoạn 1, điểm hỏa động cơ thứ nhất đẩy tên lửa được ra khỏi giếng (A).
2: Khoảng 60 giây sau, khai hỏa động cơ thứ 2, tầng thứ nhất tách ra, rơi xuống, kết thúc giai đoạn 1, chuyển sang giai đoạn 2 (B).
3: Khoảng 120 giây sau, động cơ thứ 3 (C) được khai hỏa và tầng thứ 2 tách ra, rơi xuống, bắt đầu giai đoạn 3.
4: Khoảng 180 giây sau, tầng thứ 3 tách ra, bóc vỏ và lớp chụp đầu đạn (D) để lộ đầu đạn.
5: Phần đế gắn đầu đạn sẽ chuẩn bị được tách ra
6: Đế gắn đầu đạn tách ra, đầu đạn tự bay theo quán tính (E)
7&8: Trong 2 giai đoạn này, bộ vi xử lý của đầu đạn sẽ tự dẫn, nó sẽ lấy độ cao rồi tự phân hướng và phóng liên tiếp xuống mục tiêu
Từ khi ra đời đến nay, ICBM chưa một lần "thử lửa", mấy cuộc chiến tranh gần đây, vũ khí sát thương uy lực nhất từng được sử dụng chỉ là tên lửa hành trình. Thế nhưng, các cường quốc vẫn không ngừng nâng cấp và làm mới kho tên lửa chiến lược, các quốc gia chưa có thì dốc sức vào nghiên cứu, chế tạo và coi nó là thứ vũ khí tối quan trọng trong chiến lược phát triển vũ khí quốc gia.
8 đầu đạn của Peacekeeper tái nhập khí quyển tấn công các mục tiêu độc lập
trong một lần thử nghiệm trước đây
Nguyên nhân thứ nhất xuất phát từ những ưu điểm tuyệt đối của nó là cự ly tấn công siêu xa, tốc độ tấn công cực nhanh, uy lực tấn công cực mạnh, khả năng sát thương trên diện rộng cực kỳ nhanh chóng. Đây là những ưu điểm mà không loại vũ khí tấn công chính xác nào có được.
Thứ hai: Nghiên cứu, phát triển ICBM là thước đo trình độ công nghiệp quốc phòng và thực lực của nền kinh tế quốc gia, biểu trưng cho địa vị của một cường quốc. Gia nhập vào "Câu lạc bộ ICBM" sẽ mang lại niềm tự hào dân tộc, nâng cao vị thế và tiếng nói quốc gia trong giải quyết các sự vụ quốc tế.
Thứ 3: Phát triển ICBM có liên quan đến rất nhiều ngành khoa học lí thuyết và công nghệ ứng dụng then chốt như: vật liệu, hóa học, cơ khí, điện tử, viễn thông, vật lý hạt nhân...Quá trình nghiên cứu, chế tạo thành công ICBM sẽ giúp một quốc gia nâng cao trình độ toàn diện của nền công nghiệp.
Vì vậy, có thể khẳng định trong tương lai rất xa, ICBM vẫn sẽ được phát triển và đóng vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh quốc gia của các nước trên thế giới.
Theo ANTD
INS Vikramaditya thiếu khả năng phòng không đến bao giờ? Ngày 26/11/2013, trang mạng Defencenews đưa tin, sau 5 năm chậm trễ tiếp nhận tàu sân bay Vikramaditya, Hải quân Ấn Độ sẽ tiếp tục phải chờ đợi thêm một khoảng thời gian dài nữa, trước khi con tàu này được trang bị thêm hệ thống tên lửa phòng không Barak-8 theo yêu cầu của mình. Hệ thống tên lửa phòng không hạm...