Giải mã về ác mộng khi ngủ
“Cháu 21 t.uổi, không có bệnh mạn tính nào nhưng cơ thể hơi gầy. Không hiểu sao gần đây cháu hay nằm mơ, xin bác sĩ giúp cháu thoát khỏi tình trạng này”.
Chào cháu,
Trong một ngày đêm, trung bình con người cần ngủ đủ 8 tiếng để cơ thể được nghỉ ngơi sau một thời gian lao động. Giấc ngủ trải qua hai trạng thái chính. Trạng thái đầu tiên là giấc ngủ thường, còn gọi là giấc ngủ không động mắt. Trạng thái thứ hai là giấc ngủ đảo ngược hay còn gọi là giấc ngủ nhanh, giấc ngủ có động mắt, chiếm 25% thời gian ngủ.
Đặc trưng của giấc ngủ đảo ngược này là các cử động nhanh và thành từng đợt của nhãn cầu. Ngoài ra trong trạng thái này còn có hiện tượng mất trương lực cơ, giật nhẹ ở ngón tay, nhịp thở và nhịp tim không đều. Những hiện tượng đó có liên quan đến giấc mơ xảy ra trong trạng thái ngủ này.
Nằm mơ thấy ác mộng là một biểu hiện của rối loạn giấc ngủ đảo ngược.
Ở người trẻ t.uổi, nằm mơ gặp ác mộng chủ yếu là do tâm lý. Thường là ban ngày bị ám ảnh, lo lắng quá mức về điều gì đó thì ban đêm hay gặp ác mộng. Mặt khác, nếu phòng ngủ quá ngột ngạt, thiếu không khí, khi ngủ nằm gối đầu quá cao, có thói quen đặt tay hoặc vật nặng lên cổ, ngực, đặc biệt là vùng trước tim sẽ ảnh hưởng đến hô hấp và cung cấp m.áu cho não, dẫn đến ác mộng.
Để tránh gặp phải ác mộng, cháu nên thường xuyên tập thể dục thể thao cho cơ thể khỏe mạnh hơn, chú ý ngủ đủ 8 tiếng/ngày, phòng ngủ phải thoáng khí, không nên xem phim hay đọc những truyện rùng rợn, không đặt tay hay vật gì đó lên ngực khi ngủ, phải luôn giữ cho tâm hồn thoải mái. Chúc cháu sẽ có những giấc mơ đẹp.
Theo BS. Nguyễn Hoàng Nam ( Sức Khỏe & Đời Sống)
Video đang HOT
Trị bệnh thiếu m.áu chân mạn tính do xơ vữa
Bệnh thiếu m.áu chân mạn tính hay bệnh tắc động mạch tắc nghẽn mạn tính chi dưới là một nguyên nhân thường gặp gây mất chức năng đi đứng của bệnh nhân.
Đi đứng là một hoạt động cơ bản của con người. Bệnh thiếu m.áu chân mạn tính hay còn gọi là bệnh động mạch tắc nghẽn mạn tính chi dưới là một nguyên nhân thường gặp gây mất chức năng đi đứng của bệnh nhân. Ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến chân, bệnh này còn ảnh hưởng đến toàn thân, gây ra biến chứng và t.ử v.ong. Tại nước ta, có nhiều bệnh nhân bị bệnh tắc động mạch đến bệnh viện trong giai đoạn muộn, khi đã có hoại tử lan rộng ở bàn chân nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn với tỉ lệ cắt cụt chi vẫn còn cao.
1. Bệnh động mạch tắc nghẽn mạn tính chi dưới là gì?
Bệnh động mạch tắc nghẽn mạn tính chi dưới là một bệnh thường gặp trong phẫu thuật mạch m.áu, một chuyên khoa điều trị về bệnh của động mạch và tĩnh mạch. Bệnh này chiếm khoảng 7% ở người có độ t.uổi 60-69 t.uổi, 12,5% ở độ t.uổi 70-79 t.uổi và chiếm trên 23% ở độ t.uổi trên 80.
Có một số nguyên nhân, tuy nhiên, hẹp và tắc nghẽn do các mảng xơ vữa là nguyên nhân thường gặp nhất. Có thể ví các động mạch tương tự như một hệ thống các ống kích thước khác nhau, dẫn m.áu từ tim đến nuôi các cơ quan và chi dưới kể từ mông cho đến các ngón chân. Khi tắc động mạch, lượng m.áu đến nuôi chân giảm đi, đến một mức độ nào đó sẽ gây tình trạng thiếu m.áu nuôi chân ở các mức độ khác nhau.
Hình chup động mạch chi dưới bị tắc
2. Những đối tượng nào thường mắc bệnh này?
Những người lớn t.uổi, hút t.huốc l.á, có bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ m.áu, sống ít vận động và trong gia đình có người bệnh xơ mỡ là đối tượng dễ mắc bệnh động mạch tắc nghẽn mạn tính.
3. Bệnh động mạch tắc nghẽn mạn tính thường biểu hiện như thế nào?
Bệnh sẽ tiến triển qua các giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn sớm (giai đoạn 1) thường không có triệu chứng.
Giai đoạn 2 biểu hiện bằng đau cách hồi, đây là hiện tượng đau xuất hiện ở cẳng chân hoặc ở mông khi bệnh nhân đi được một đoạn đường, buộc bệnh nhân phải đứng lại nghỉ vài phút mới có thể đi lại tiếp, đi tiếp một khoảng cách giống như vậy, đau lại xuất hiện. Đây là một dấu hiệu rất thường gặp của bệnh. Đoạn đường bệnh nhân đi được trước khi xuất hiện đau ngắn hay dài tùy thuộc vào mức độ của bệnh. Nếu khoảng cách đi được nhỏ hơn 200 mét thì được gọi là đau cách hồi nặng.
Giai đoạn 3 biểu hiện đau liên tục lúc nghỉ, nhất là về khuya, và đau nhiều ở các ngón chân và bàn chân. Bệnh nhân thường mất ngủ hoặc là ngủ với tư thế chân buông thỏng ngoài gường vì ở tư thế này sẽ đỡ đau hơn.
Nếu không điều trị hiệu quả, bệnh sẽ chuyển sang giai đoạn nặng nhất (giai đoạn 4), các ngón chân hoặc bàn chân sẽ hoại tử hoặc loét không lành được.
Giai đoạn 3 và 4 được gọi là giai đoạn thiếu m.áu chân nguy kịch, biểu hiện của một tình trạng bệnh tắc động mạch rất nặng, với nguy cơ cắt cụt chi cao nếu không điều trị kịp thời.
Bàn chân hoại tử ở ngón cái
4. Nếu không được phát hiện và điều trị đúng, nguy cơ của bệnh này là gì?
Nguy cơ của bệnh bao gồm tại chỗ và toàn thân. Nguy cơ tại chỗ là nguy cơ cắt cụt chân do hoại tử. Bên cạnh đó, vì xơ vữa mạch là một bệnh hệ thống nên ngoài động mạch chi dưới bị tắc, tất cả các mạch m.áu khác trong cơ thể cũng có nguy cơ bị bệnh, đặc biệt là động mạch nuôi tim (nhồi m.áu cơ tim), động mạch nuôi não (gây tai biến mạch m.áu não), động mạch thận (gây suy thận, tăng huyết áp)...Các biến chứng này có thể gây t.ử v.ong.
5. Các phương tiện chẩn đoán nào cần thiết để chẩn đoán bệnh ?
Với việc hỏi bệnh và bắt mạch, trong đa số trường hợp có thể chẩn đoán được bệnh. Tuy nhiên, cần phải làm thêm siêu âm Doppler và chụp hình mạch m.áu để có thể đ.ánh giá chính xác mức độ bệnh và có một cách điều trị hợp lý.
6. Bệnh này được điều trị như thế nào? Sự khác nhau của các phương pháp điều trị?
Tùy theo giai đoạn bệnh, có thể điều trị bằng thuốc hay phẫu thuật.
Trong giai đoạn sớm có thể điều trị nội khoa nhằm điều chỉnh các yếu tố nguy cơ như bỏ hút thuốc, đi bộ từ 30-60 phút mỗi ngày, thay đổi lối sống, điều trị tốt các bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và rối loạn mỡ m.áu đi kèm, kết hợp với uống thuốc ức chế kết tập tiểu cầu như Aspirin, Clopidogrel (Plavix), thuốc giảm mỡ m.áu nhóm statine và thuốc hạ áp nhóm ức chế men chuyển.
Trong giai đoạn nặng từ giai đoạn đau cách hồi với khoảng cách đi được dưới 200 mét thì cần phải phẫu thuật. Có 02 phương pháp phẫu thuật: can thiệp nội mạch hoặc mổ hở.
Phương pháp can thiệp nội mạch là một phương pháp điều trị ít xâm lấn, ít gây đau, đơn giản nhất. Được thực hiện bằng cách chích vào động mạch đùi sau khi gây tê tại chỗ, qua đó luồn một dây ở đầu có bóng nong, đưa bóng đến đoạn động mạch bị hẹp và nong, sau đó có thể đặt vào vị trí vừa nong một stent, có tác dụng như một ống đỡ, giúp cho động mạch không bị hẹp lại. Tuy nhiên hạn chế của phương pháp này chỉ áp dụng cho những trường hợp tình trạng tắc động mạch không quá lan rộng và giá thành điều trị cao hơn.
Trong trường hợp tắc động mạch nhiều nơi, tắc trên đoạn dài, phức tạp, phẫu thuật bắc cầu động mạch là phương pháp điều trị phù hợp nhất. Cho kết quả dài hạn tốt. Tuy nhiên đây là phẫu thuật nặng và kéo dài.
Thạc sĩ - Bác sĩ Lê Thanh Phong
Trưởng Đơn vị Phẫu thuật Mạch m.áu - BV Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Nguy cơ mắc bệnh thận do thừa cân Theo một nghiên cứu mới tại Anh, những người trẻ thừa cân sẽ có nguy cơ các bệnh về thận nhiều hơn đến 2 lần so với những người có cân nặng bình thường. Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu dài hạn từ 4.600 người ở Anh, sinh vào tháng 3 năm 1946. Các dữ liệu bao gồm chỉ số...