Giải mã quái vật hành tinh: “Chúa tể biển cả kỷ Jura” này là kẻ quái dị, có đặc điểm giống 3 loài
Vốn là cá sấu nhưng chúng lại có mái chèo, phần đuôi và hệ thống tiền đình tương tự như cá voi và cá heo.
Khoảng 170 triệu năm trước, những con cá sấu nguy hiểm tồn tại ở kỷ Jura là kẻ thống trị khắp các đại dương. Các nhà nghiên cứu cho rằng chúng đã thành công “xây dựng” “đế chế” bạo tàn của mình nhờ “bắt chước” hình dáng và giác quan của cả cá heo và cá voi.
Loài quái thú đã tuyệt chủng này được biết đến với tên gọi Thalattosuchians. Chúng có thể đạt kích thước lên đến 10m. Tiến hóa từ tổ tiên sống trên cạn, các chi của chúng dần có những đặc điểm giống với chân chèo, đuôi phát triển thành hình như đuôi cá voi, khiến chúng trở thành kẻ săn mồi ghê gớm, có tốc độ bơi đáng gờm.
Họ thalattosuchians có nhiều loài khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là Teleizardoid Machimosaurus rex và Plesiosuchus.
Teleizardoid Machimosaurus rex là loài thalattosuchian bán thủy sinh lớn nhất, có thể dài tới 10m. Chúng còn có khả năng tiêu hóa được các con mồi cứng như rùa nhờ vào hàm răng đặc biệt, nhà cổ sinh vật học Julia Schwab chia sẻ với CNN.
Plesiosuchus là loài thalattosuchian biển lớn nhất sống ở các đại dương mở, có chiều dài khoảng 6,8 mét và chúng săn bất cứ thứ gì từ cá, mực cho đến các loài bò sát biển khác.
Video đang HOT
Bằng cách nghiên cứu hộp sọ của loài cá sấu cổ đại này, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tai trong của chúng cũng đã tiến hóa để thích nghi với cuộc sống dưới nước
Các nhà cổ sinh vật học từ Đại học Edinburgh đã phân tích hình chụp CAT của hơn chục hộp sọ hóa thạch để nghiên cứu hệ thống tiền đình – bộ ba ống xếp vòng thành hình bán nguyệt thuộc tai trong, có chức năng kiểm soát thăng bằng.
Các ống trong thệ thống tiền đình của thalattosuchian tiền hóa nhỏ và dày dần để tích nghi với cuộc sống dưới nước. Ảnh: Flipboard
Họ phát hiện ra rằng khi sinh vật này tiến hóa đến giai đoạn bán thủy sinh, các ống này bắt đầu teo nhỏ và đầy đặn hơn, rất giống với của cá voi và cá heo. Hình dạng này khiến hệ thống tiền đình của chúng ít nhạy cảm hơn, giúp thích nghi tốt hơn với cuộc sống đại dương.
“Các cơ quan cảm giác như tai trong là chìa khóa giúp ta hiểu hơn về cách mà các sinh vật cổ đại sinh tồn. Chúng tôi phát hiện rằng các sinh vật thuộc họ cá sấu biển có hình dạng tai trong rất đặc biệt, tương tự với tai trong của các loài bò sát thủy sinh và cá voi ngày nay”, Julia Schwab – nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại trường GeoSciences thuộc Đại học Edinburgh cho biết.
Trên đất liền, các loài động vật cần hệ thống tiền đình nhạy cảm để đối phó với trọng lực và cảnh quan phức tạp. Tuy nhiên, ở đại dương, sức nổi giúp động vật biển giảm bớt gánh nặng trọng lực. Sự tiến hóa này là kết quả của việc thích nghi với môi trường sống sâu dưới nước mới của cá sấu, các nhà khoa học nói thêm.
Nhờ tiến hóa các chi, đuôi và hệ thống tiền đình, thalattosuchian trở thành kẻ săn mồi đáng sợ, có tốc độ bơi lớn. Ảnh: CNN
Tiến sĩ Steve Brusatte, tác giả cấp cao của nghiên cứu cho biết: “Những con cá sấu thủy sinh cổ đại đã phát triển tai trong khác thường sau khi biến đổi bộ xương của chúng để thích hợp bơi lội hơn. Cá voi cũng phát triển tai trong theo cách tương tự ngay sau khi chúng bắt đầu sống dưới nước”.
Trong một bài báo được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Science, các chuyên gia lưu ý rằng sự thay đổi tương tự cũng xảy ra độc lập ở cá voi. Điều này khiến họ tin rằng các loài sinh vật bắt chước sự thay đổi của nhau.
“Có vẻ như cá sấu và cá voi đã có những lộ trình tiến hóa từ thổ sinh sang thủy sinh tương tự nhau nhưng diễn ra khác biệt”, Brusatte nói thêm.
Loài chim "độc nhất vô nhị" có thể bay 10 tháng không cần hạ cánh
Các nhà khoa học đã rất bất ngờ khi phát hiện ra một loài chim có thể ăn uống, giao phối, thậm chí ngủ trong khi bay và có thể bay liên tục trong 10 tháng mà không cần hạ cánh.
Apus apus - chim yến thông thường, là một loài chim phổ biến sống ở khắp châu Âu và phần lớn châu Á. Loài chim có kích thước trung bình này hiện đang giữ kỷ lục trong thế giới loài chim về thời gian ở trên không nhiều nhất mỗi năm.
Với thời gian ở trên không nhiều như vậy nên loài chim yến này chủ yếu uống và ăn trong không khí, ăn thịt bất kỳ loài côn trùng nào chúng có thể bắt được khi đang bay, chúng cũng có thể giao phối trong không khí, và chúng cũng có thể ngủ trong không khí bằng cách lướt trên những luồng không khí ấm áp.
Các lý thuyết về việc những con chim có thể dành phần lớn cuộc sống của chúng ở trên không được bắt nguồn từ những năm 1950, nhưng cho tới năm 2016 những báo cáo mới rõ ràng hơn.
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Khoa Sinh học của Đại học Lund, Thuỵ Điển, đã phát triển một loại máy ghi dữ liệu vi mô mới để theo dõi các chuyển động của loài chim. Các phát hiện cho thấy những chim yến thông thường đã dành hơn 99% thời gian của chủng trong thời gian 10 tháng không sinh sản trên không.
Ông Ian Hedenstrm, chuyên gia nghiên cứu của Pháp cho biết ông tin rằng những con chim bằng cách nào đó ngủ trong khi bay. Cơ thể của chúng đã thích nghi với chuyến bay gần như không ngừng với đôi cánh dài và hẹp, chân ngắn và nhẹ, và chúng có hình dạng khí động học gần như hoàn hảo. Chúng cũng rụng lông rất chậm trong khoảng thời gian sáu tháng, không để lại bất kỳ khoảng trống đáng kể nào có thể ảnh hưởng đến chuyến bay dài ngày như vậy.
Chim yến thông thường có tỷ lệ sống sót cao hơn so với hầu hết các loài chim và thời gian bay của chúng được cho là ảnh hưởng trực tiếp đến điều đó. Ở trong không khí trong thời gian dài có nghĩa là chúng không phải lo lắng về những kẻ săn mồi, ngoại trừ những con chim săn mồi bắt chúng bất ngờ và chúng cũng không thể tiếp xúc với quá nhiều ký sinh trùng.
Dữ liệu của các nhà khoa học cho thấy chim yến độ tuổi từ 20 năm trở lên và trong suốt cuộc đời của mình chúng có thể bay trên 3 triệu km.
Trang Phạm
Tại sao một số động vật lại có độc? Các vi khuẩn sản sinh độc tố có thể biến một con sa giông thành kẻ mang lại chết chóc. Các loại vi khuẩn trên da sản xuất ra tetrodotoxin - một hóa chất gây tê liệt cũng được tìm thấy ở cá nóc. Trên da của loài sa giông da nhám (Taricha granulosa) có thể chứa các vi khuẩn sản xuất ra...