Giải bài toán nợ công: Cần một hệ thống quản lý đồng bộ
Phải tính toán chặt chẽ hơn khi vay nợ, phải đồng bộ quản lý nợ với quản lý ngân sách và đầu tư công để có thể quản trị rủi ro của nợ công.
Dù nợ công trong những năm gần đây có xu hướng tăng chậm lại và hiện tỷ lệ nợ công của Việt Nam so với GDP đã giảm xuống còn 61,4%, nhưng các chỉ số nợ vẫn còn cao, áp lực nợ công vẫn rất lớn, nhiều rủi ro tiềm ẩn. Trong khi đó, Việt Nam đã không còn nguồn vay ưu đãi từ Ngân hàng Thế giới (WB) và từ đầu năm 2019 cũng không được vay ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mà sẽ chỉ còn các khoản vay với điều kiện thị trường. Nhưng Việt Nam vẫn cần tiếp tục vay nợ để đầu tư, để bù đắp thâm hụt ngân sách. Điều đó cho thấy áp lực quản lý và sử dụng hiệu quả nợ công ngày càng lớn hơn nhiều.
Theo ông Lê Văn Cương, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên nhân chính khiến nợ công tăng cao và tốc độ tăng nhanh trong thời gian qua chủ yếu do áp lực vốn cho đầu tư phát triển nên phải duy trì mức bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) ở mức cao. Bên cạnh đó, phân bổ vố đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao, đã phát sinh những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay được Chính phủ bảo lãnh dẫn đến không trả được nợ, Chính phủ phải trả thay.
Nợ công của Việt Nam hiện ở mức 61,4% GDP (Ảnh minh hoạ: KT)
“Việc xây dựng kế hoạch huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay chưa gắn kết chặt chẽ trong mối quan hệ với khả năng trả nợ; chưa gắn kết giữa xác định mức vay nợ phù hợp với đảm bảo an toàn nợ công và ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh nợ công, nợ Chính phủ đang có xu hướng tiến sát ngưỡng giới hạn chỉ số nợ đã được phê duyệt”, ông Cương chỉ rõ.
Ông Cương cũng cho rằng, vai trò quản lý nợ ở các địa phương còn yếu. Việc xây dựng kế hoạch huy động, triển khai các công cụ như chiến lược nợ dài hạn, chương trình quản lý nợ trung hạn; kế hoạch vay, trả nợ hàng năm chưa gắn kết chặt chẽ với kế hoạch tài chính-ngân sách trung hạn và kế hoạch đầu tư công trung hạn; chưa có sự phân định rõ ràng và sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa quản lý nợ công, quản lý ngân sách và quản lý đầu tư công. Ngoài ra, chưa có quy định phù hợp về thẩm quyền, công cụ kiểm soát và phòng ngừa rủi ro nợ.
Còn theo ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, dù hệ thống các công cụ quản lý nợ công đã được ban hành, nhưng việc huy động vốn vay đôi khi thoát ly chiến lược, kế hoạch đã được phê duyệt… nên hiệu lực thi hành thấp, bị động.
“Luật Quản lý nợ công chạm tới 24 luật khác. Nếu nhìn từ luật đến các nghị định và thông tư hướng dẫn thì giống như rừng nhiệt đới, có nhiều tầng khác nhau nên rất phức tạp”, ông Long cho biết.
Bên cạnh đó, cơ chế hiện hành về bảo lãnh vẫn dựa nhiều vào bao cấp của nhà nước, ngân sách Nhà nước chịu rủi ro tín dụng. Đồng thời, chưa có quy định cụ thể về việc phân loại nợ, trích lập và xử lý rủi ro tín dụng nên khi có nợ xấu hoặc nợ quá hạn không có nguồn để xử lý, phải điều chỉnh cơ chế tài chính, tái cơ cấu nợ bằng cách chuyển sang đầu tư vốn nhà nước hoặc cấp phát ngân sách Nhà nước, làm tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ.
Luật Quản lý nợ công bắt đầu có hiệu lực vào tháng 7/2018; hệ thống 7 Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công 2017 cũng đã được ban hành. Nhưng theo ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB, “chừng đó là chưa đủ”. Bởi theo ông Sebastian, quan trọng là việc triển khai luật và những hành động cụ thể để đưa nguyên tắc trong luật trở nên thực tế. Trong đó, bao gồm các vấn đề như cải cách thể chế, tăng cường công tác phối hợp, xử lý các vấn đề phân tán trong quản lý, tổ chức để quản lý nợ công được thực hiện tổng thể.
Video đang HOT
Cần một ma trận tổng thể
Theo các chuyên gia, phải tính toán chặt chẽ hơn khi vay nợ, phải đồng bộ quản lý nợ với quản lý ngân sách và đầu tư công để có thể quản trị rủi ro của nợ công. Theo đó, Bộ Tài chính đang nỗ lực cải cách trong công tác quản lý nợ.
“Bộ Tài chính đã phối hợp cùng Nhóm chuyên gia của WB xây dựng Khung cải cách về quản lý nợ công, hướng đến quản lý nợ công bảo đảm sự đồng bộ giữa quản lý nợ với quản lý ngân sách và đầu tư công, kiểm soát các chỉ tiêu an toàn nợ, các trần ngưỡng an toàn nợ; kiểm soát rủi ro đối với danh mục nợ công”, ông Trương Hùng Long cho hay.
Với mục tiêu như vậy thì Khung cải cách công tác quản lý nợ công sẽ là một ma trận tổng thể nhưng bao gồm các hoạt động rất cụ thể, có lộ trình thực hiện rõ ràng. Trong đó sẽ áp dụng các mô hình phân tích bền vững nợ, mô hình xây dựng Chương trình quản lý nợ trung hạn nhằm quản lý nợ, quản lý rủi ro một cách chủ động; cải thiện công tác huy động vốn thông qua việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong nước của Chính phủ, mở rộng, tiếp cận các hình thức huy động vốn nước ngoài, thay thế dần cho nguồn vốn ODA…
Theo kinh nghiệm của ông Rodrigo Cabral – Cán bộ tài chính cao cấp của WB, cần phải có những cải cách về quản lý nợ. Trong đó, cơ quan quản lý nợ cần phải lựa chọn cách vay cho phù hợp ở các thời điểm khác nhau; cần tính toán đánh giá mức độ, tính chất khoản vay có phù hợp với sử dụng không.
“Nợ công tới đây sẽ là ít dần ưu đãi mà vay thương mại nghĩa là tiếp cận nhiều hơn với thị trường. Vì vậy, ngay từ khâu đàm phán đã phải kiểm soát chặt chẽ. Đồng thời, phải nâng cao năng lực quản lý tài chính và năng lực tiếp cận thị trường và khả năng tiếp cận vốn trên thị trường quốc tế của Chính phủ”, ông Rodrigo Cabral khuyến cáo.
Ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính (Ảnh: KT)
Ông Trương Hùng Long cho biết thêm, trước đây quyết định vay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nhưng đến nay, để có sự lựa chọn hợp lý thì phải áp dụng mô hình phân tích với gần 100 thông số đầu vào như tình hình lạm phát, tỷ giá, tình hình xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán và cấu trúc các khoản nợ trong tương lai… Bên cạnh đó là phải tính toán xem khoản vay mới nếu thêm vào thì mười năm hai mươi năm tới nợ công sẽ thế nào. Từ đó mới xác định xem khoản nào đáng vay khoản nào không nên vay.
Quan trọng là cần cân đối giữa vốn vay trong nước và vốn vay nước ngoài nhằm đạt được cơ cấu danh mục nợ công hợp lý; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kiểm soát chặt chẽ sử dụng vốn vay, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn để tạo nguồn trả nợ trong tương lai, gắn trách nhiệm sử dụng vốn vay nợ công với trách nhiệm giải trình; công khai minh bạch về nợ công.
“Cơ cấu nợ công đã có những thay đổi đáng kể, nợ nước ngoài giờ chỉ chiếm 40% trong tổng số nợ. Nhưng tỷ lệ này vẫn còn cần thay đổi nợ công cần được cơ cấu lại để giảm tiếp tỷ lệ nợ nước ngoài. Phải phát triển thị trường vốn trong nước, trong đó bắt đầu bằng việc phát triển thị trường trái phiếu chính phủ để đảm bảo có nguồn vốn huy động tin cậy, ổn định và không phụ thuộc vào nước ngoài để không bị rủi ro về tỷ giá”, ông Rodrigo Cabral nhấn mạnh./.
Theo Cẩm Tú/VOV.VN
Nới trần vay nợ nước ngoài thêm 60.000tỷ: Tăng nợ công
Vấn đề tôi lo ngại không phải là tăng vay nợ trong nước hay nước ngoài mà là tổng nợ công quốc gia sẽ tăng, giảm thế nào?
Tăng nợ công
PGS.TS Nguyễn Văn Ngãi, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Hoa Sen cho rằng, việc nới nợ vay nước ngoài hay vay trong nước đều có nguy cơ làm tăng nợ công của quốc gia và với nợ nào nhà nước và người dân Việt Nam cũng đều phải trả.
Nợ công Việt Nam đang tăng nhanh. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, vay vốn nước ngoài luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với nguồn vốn vay trong nước như rủi ro về chênh lệch tỉ giá, đáng ngại hơn, tăng nợ nước ngoài còn liên quan tới việc xếp hạng, đánh giá uy tín, tín nhiệm về năng lực tài chính của Việt Nam đối với bạn bè quốc tế.
Do đó, PGS Nguyễn Văn Ngãi cho rằng, phương hướng tốt nhất vẫn nên hướng tới khai thác dòng vốn trong nước, cố gắng huy động tối đa nguồn lực từ các lĩnh vực trong nền kinh tế nội địa để đầu tư, phát triển, xây dựng kinh tế, hạ tầng.
Về quyết định cho phép tăng mức trần nguồn vốn vay nước ngoài từ 300.000 tỷ đồng lên 360.000 tỷ đồng, tức tăng 60.000 tỷ đồng so với dự kiến cho kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, PGS.TS Nguyễn Văn Ngãi cho rằng chưa phải là con số đáng quan ngại.
Điểm ông quan tâm là việc chuyển hướng từ tăng cường vay trong nước sang vay nước ngoài, ông cho rằng đây mới là điểm cần chú ý, cho thấy, khả năng huy động vốn trong nước đang gặp khó khăn, điều này cũng đồng nghĩa với hoạt động của các lĩnh vực kinh tế nội địa đang gặp khó khăn.
Vị PGS phân tích, nguồn lực tích lũy trong nước được chia thành hai khu vực, đó là nguồn tiết kiệm công và nguồn tiết kiệm tư nhân.
Phân tích cụ thể hơn, PGS Nguyễn Văn Ngãi cho biết, về nguồn tiết kiệm công là bao gồm các khoản tiết kiệm được từ nguồn chi tiêu từ ngân sách của nhà nước. Nguồn tiết kiệm này hiện nay rất hạn chế, thậm chí là rất thấp do Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, cần rất nhiều nguồn vốn để đầu tư xây dựng hạ tầng, thu nhập của người dân còn thấp, do đó, việc huy động vốn để xây dựng các dự án có quy mô nguồn vốn lớn bắt buộc phải dựa vào nguồn vốn vay từ nước ngoài.
Tuy nhiên, nếu sử dụng nguồn vốn hiệu quả, các dự án được đầu tư về lâu dài sẽ tạo ra những tác động lan tỏa, giúp nền kinh tế phát triển ổn định, làm tăng nguồn thu cho ngân sách.
"Như vậy, câu chuyện vẫn là việc sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả hay không? Các dự án được đầu tư có tạo ra được nguồn vốn tích lũy để quay vòng tái đầu tư phát triển hay không?
Nhìn từ góc độ này thì thấy rõ ràng ngân sách đang gặp rất nhiều khó khăn, nguồn lực thu về hạn chế, sử dụng, đầu tư bằng vốn vay còn lãng phí, bất cập, gây thất thoát lớn.
Cá biệt nhiều dự án sử dụng vốn vay ODA có tổng đầu tư lớn đều đang trong tình trạng bị kéo dài thời gian, đội vốn, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Trong khi đó, chi tiêu thường xuyên hàng năm vẫn tăng cao, vẫn còn nhiều khoản chi lãng phí, bất hợp lý. Vì những tồn tại nêu trên mà nguồn tích lũy từ khu vực công gần như là không có", ông Ngãi phân tích.
Đối với nguồn tiết kiệm, tích lũy từ khu vực tư nhân, vị PGS cho rằng khu vực này cũng đang gặp nhiều khó khăn.
"Quy mô doanh nghiệp trong nước còn nhỏ lẻ, manh mún, hoạt động còn gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, báo cáo gần đây cũng cho thấy, tính đến thời điểm cuối 2017 Việt Nam có 560.417 doanh nghiệp đang hoạt động, số doanh nghiệp lập mới tăng 15% so với 2016, đạt 126.859 doanh nghiệp nhưng ở chiều ngược lại, cũng lại có tới 60.553 doanh nghiệp ngừng hoạt động, chiếm 50% so với số doanh nghiệp mới thành lập.
Một thực tế đáng báo động của khu vực doanh nghiệp tư nhân đã được chỉ ra là tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tăng cao liên tục từ năm 2012, và hiện nay lên đến hơn 48% tổng số doanh nghiệp. Trong 3 khu vực, các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tỷ lệ thua lỗ cao hơn hẳn so với doanh nghiệp Nhà nước. Điều này cho thấy những khó khăn khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt không hề dễ dàng vượt qua.
Vì thực trạng trên nên sức khỏe cũng như nguồn tích lũy từ khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, bấp bênh và nhiều rủi ro", PGS Nguyễn Văn Ngãi phân tích.
Vị PGS cho rằng, khi hai nguồn tích lũy cơ bản trong nước không thể đáp ứng được thì bắt buộc phải tính đến việc đi vay. Ông nhấn mạnh, chúng ta không sợ nợ, không sợ đi vay nhưng phải có kế hoạch trả nợ và kế hoạch sử dụng nguồn vốn phải thật hiệu quả, tiết kiệm.
"Muốn có được nguồn vốn tích lũy, trả nợ thì không còn cách nào khác là doanh nghiệp trong nước phải làm ăn hiệu quả, dự án đầu tư phải mang lại tác động lan tỏa, tạo nguồn thu phục vụ nhu cầu tái đầu tư và trả nợ", vị PGS nhấn mạnh.
Theo baodatviet.vn
Nới trần vay nước ngoài 60.000 tỷ: Bình thường nhưng... Vay được vốn nước ngoài thì phải tính toán, sử dụng cũng phải sòng phẳng, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả. Dùng tiền ODA không dễ PGS.TS Lê Cao Đoàn - Viện kinh tế Việt Nam cho rằng, việc Quốc hội cho phép tăng mức trần nguồn vốn vay nước ngoài từ 300.000 tỷ đồng lên 360.000 tỷ đồng, tức tăng 60.000 tỷ...