Giá sản phẩm chăn nuôi vẫn giảm
Hiện giá các sản phẩm chăn nuôi như lợn hơi, gia cầm trên thị trường trong nước tiếp tục xu hướng giảm.
Chăm sóc đàn lợn thịt tại trang trại của gia đình anh Phạm Văn Thụy, xã Phú Châu, huyện Ba Vì. Ảnh minh họa: Vũ Sinh/TTXVN
Trong khi đó, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt khiến nhiều người chăn nuôi điêu đứng, khả năng tái đàn với các hộ chăn nuôi nhỏ vô cùng khó.
Hiện trên thị trường miền Bắc, giá lợn hơi thu mua trong khoảng từ 54.000 – 57.000 đồng/kg. Tại miền Trung – Tây Nguyên, lợn hơi giá khoảng từ 54.000 – 55.000 đồng/kg. Khu vực miền Nam phổ biến trong khoảng từ 52.000 – 55.000 đồng/kg. Với mức hiện nay, giá lợn hơi giảm từ 12 – 14% so với bình quân tháng trước.
Theo đánh giá của các doanh nghiệp, khu vực Hà Nội và Hưng Yên đang thu mua giá lợn hơi tốt nhất với mức lần lượt 56.000 – 57.000 đồng/kg.
Giá gà lông màu ngắn ngày khoảng 25.000-28.000 đồng/kg, giảm 19% so với tháng trước. Gà trắng tại miền Bắc là 21.000 đồng/kg, các vùng còn lại trong khoảng từ 9.000 – 10.000 đồng/kg.
Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, từ tháng 7/2021 đến nay, giá lợn thịt giảm mạnh, còn bình quân từ 51.000 – 54.000 đồng/kg, trong khi đó đầu năm nay là trên 80.000 đồng/kg. Đây là mức giá thấp kỷ lục từ 10/2019.
Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Đồng Nai, giá thành sản xuất 1 con lợn thịt trọng lượng 110 kg hiện nay khoảng 6.290.000 đồng, tương đương với 57.180 đồng/kg. Đối với các doanh nghiệp, trang trại chủ động được con giống; giá thành khoảng 46.000 – 52.000 đồng/kg.
Như vậy, giá thành sản xuất so với giá bán hiện nay là hòa vốn (đối với chăn nuôi quy mô nhỏ) và lãi khoảng 500.000-1.000.000 đồng/con đối với các doanh nghiệp, trang trại quy mô lớn tự sản xuất được con giống.
Với giá thức ăn tăng liên tục vừa qua, ông Nguyễn Kim Đoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai cho biết, mỗi con lợn thành phẩm cõng thêm chi phí thức ăn từ 700.000 – 1.000.000 đồng so với tháng 11 năm ngoái.
Video đang HOT
Ông Đoàn Xuân Trúc, Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, trong điều kiện dịch bệnh ngày càng phức tạp, kéo dài càng gây bất ổn trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Dịch đã làm tăng và phát sinh nhiều khoản chi phí liên quan tới hoạt động phòng và chữa bệnh, ổn định cuộc sống và xã hội. Hầu hết các khoản chi phí trong sản xuất và kinh doanh đều tăng, làm gia tăng giá thành sản xuất, gây bất lợi cho người chăn nuôi và người tiêu dùng.
Do giá bán sản phẩm đều giảm sâu, tiêu thụ khó khăn, sản xuất thua lỗ nên khá nhiều trang trại chăn nuôi giảm quy mô, nhiều nông hộ phải bỏ trống chuồng… Ông Đoàn Xuân Trúc cho rằng, người nuôi phải thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm theo chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong tái đàn và tăng đàn, chăn nuôi an toàn sinh học theo chu kỳ sản xuất.
Nhà nước cần có chính sách lãi suất tiền vay, đất đai. Chính sách cần có sớm nếu không nông dân sẽ khó tái đàn, tăng đàn. Từ đó tạo ra khoảng trống trong chu kỳ sản xuất, nguồn cung sản phẩm.
Ông Đoàn Xuân Trúc cho rằng, trong điều kiện đại dịch COVID-19 phức tạp và còn kéo dài, cần có các cơ chế, chính sách để đảm bảo thuận lợi cho hoạt động phân phối, lưu thông cung ứng đầu vào và tiêu thụ sản phẩm của ngành chăn nuôi. Các bộ, ngành cần nghiên cứu, xem xét quy định về việc thu mua, giết mổ và chế biến dự trữ thịt gà, thịt lợn khi ứ đọng, chậm tiêu thụ do cung vượt cầu, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…
Bên cạnh đó, các nông hộ phải nâng cao trình độ chăn nuôi, không thể duy trì chăn nuôi tận dụng, phải chăn nuôi an toàn sinh học. Nông hộ phải tham gia vào các chuỗi của hợp tác xã, doanh nghiệp. Phát huy vai trò dẫn dắt chuỗi của các doanh nghiệp lớn.
Trong bối cảnh dịch COVID-19 hiện nay, theo ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Chủ tịch thường trực Hội Chăn nuôi Việt Nam, ngoài khâu sản xuất còn có các khâu: thu gom, giết mổ – chế biến, phân phối. Hiện nay, phần lớn các khâu này dễ bị đứt gãy, trừ những doanh nghiệp lớn. Do đó các địa phương cần rà soát sớm để cho các khâu được tiếp cận các điều kiện phòng chống dịch tốt nhất như tiêm vaccine cho lao động.
Về khả năng tái đàn, ông Nguyễn Kim Đoán đánh giá, với các hộ chăn nuôi gia cầm như: gà trắng vịt thời gian qua bị thua lỗ rất nặng nên khả năng tái đàn rất khó. Với doanh nghiệp với chu trình khép kín, có vốn thì họ vẫn đầu tư để đón “sóng” tăng giá mới do nguồn cung sắp tới có khả năng thấp.
Khi chăn nuôi công nghiệp phát triển thì nông dân rất khó cạnh tranh về giá thành sản xuất nên bà con cần có sự chuyển đổi phù hợp sang các loại vật nuôi khác. Ngành nông nghiệp khuyến cáo các nông hộ chuyển đổi sang chăn nuôi những con được ngành nông nghiệp khuyến cáo như gia súc ăn cỏ, lợn đặc sản, thỏ, dê…
Khả năng tự chủ sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước đến đâu?
Nhiều chuyên gia chỉ ra rằng, khả năng tự chủ sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước còn yếu.
Sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi JAPFA Comfeed Việt Nam, chi nhánh Thái Bình. Ảnh minh họa: Thế Duyệt/TTXVN
Ngành chăn nuôi Việt Nam đang có sự tăng trưởng rất ấn tượng với bình quân từ 5 - 6%/năm. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng trong thời gian gần đây và nguyên nhân chính được chỉ ra là do giá nguyên liệu nhập khẩu tăng mạnh, cộng với chi phí vận chuyển tăng do dịch COVID-19. Nhiều chuyên gia lĩnh vực này đã chỉ ra rằng, khả năng tự chủ sản xuất trong nước còn yếu, đã đến lúc Việt Nam cần có một chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu thức ăn trong nước một cách căn cơ, bài bản.
Cùng với sự tăng trưởng của ngành nuôi, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp ở Việt Nam cũng đã tăng trưởng ngoạn mục, đạt bình quân từ 13 - 15%/năm. Tổng sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp từ 10,8 triệu tấn năm 2010 đã tăng lên gần gấp đôi vào năm 2020, đạt 20,3 triệu tấn. Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 10 thế giới và số 1 khu vực Đông Nam Á về sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp, xếp trên cả Thái Lan và Indonesia.
Theo dự báo của Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam, nhu cầu thức ăn chăn nuôi công nghiệp của nước ta sẽ cần khoảng từ 28 - 30 triệu tấn/năm trong 5 năm tới, giá trị từ 12 - 13 tỷ USD với tỷ lệ tăng trưởng trung bình từ 11 - 12%/năm. Trong số đó, hơn một nửa sản lượng thức ăn chăn nuôi sẽ dành cho gia cầm.
Tuy nhiên, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp nước ta vẫn phải nhập khẩu từ 70 - 85% nguyên liệu từ nước ngoài và hàng năm đều tăng cả về lượng cũng giá trị.
Nguyên nhân lượng nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của nước ta lớn và không ngừng gia tăng là do mỗi năm, ngành nông nghiệp trong nước chỉ có thể cung cấp tối đa từ 4,5 - 5 triệu tấn ngô hạt, 4 triệu tấn cám, 4 triệu tấn sắn làm thức ăn chăn nuôi. Trong khi đó, nhu cầu hàng năm cần tới từ 26 - 27 triệu tấn các loại, chủ yếu 2 là ngô, đậu tương, lúa mỳ, dầu động thực vật và đây vốn không phải là các loại cây trồng thế mạnh của Việt Nam.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thời gian qua, các đơn vị đã tập trung nghiên cứu, chọn tạo giống ngô lai theo hướng đa dạng hóa bộ giống ngô phục vụ sản xuất; trong đó, ưu tiên đối với nhóm ngô lai năng suất cao, chịu hạn, ngô sinh khối phục vụ chăn nuôi đại gia súc, ngô thực phẩm phục vụ thị trường ăn tươi và chế biến.
Từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã công nhận chính thức 50 giống ngô lai. Các giống ngô do Việt Nam lai tạo chiếm 40% thị phần ngô giống trong cả nước. Các giống ngô của Việt Nam năng suất, chất lượng tương đương giống của các công ty nước ngoài, nhưng giá rẻ hơn khoảng 1/3.
Tuy nhiên, diện tích ngô năm 2019 chỉ còn 991 nghìn ha, giảm 135 nghìn ha so với năm 2010, nhưng năng suất tăng nhanh. Bởi, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đưa giống ngô lai vào sản xuất đại trà với trên 95% tổng diện tích gieo trồng, đạt 48 tạ/ha, tăng 6,9 tạ/ha nên sản lượng đạt 4,75 triệu tấn, tăng 130 ngàn tấn so với năm 2010. Tuy nhiên, sản lượng ngô sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu. Còn với cây đậu tương, diện tích cũng giảm mạnh, diện tích chỉ còn gần 50 nghìn ha, sản lượng 76 nghìn tấn chỉ bằng 25% so với năm 2010.
Ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam cho biết, ở Việt Nam cây ngô được đánh giá có lợi thế thấp hơn so với các cây trồng khác. Hiện một số vùng trồng ngô ở Việt Nam nhỏ lẻ, vùng trồng chủ lực hiện nay như Sơn La được trồng chủ yếu trên đất dốc. Theo nghiên cứu, nếu năng suất đạt trung bình trên 5 tấn/ha và giá thành sản xuất ngô vào khoảng 5.500 đồng/kg sẽ hòa vốn.
Những năm gần đây, có thời điểm giá ngô thế giới xuống rất thấp, khoảng 200 USD/tấn, giá ngô nhập từ Nam Mỹ về Việt Nam dưới 5.000 đồng/kg. Do đó, nông dân trồng ngô thua lỗ và diện tích ngô giảm nhanh hàng năm. Thay vào đó, nhiều diện tích ngô chuyển sang trồng cây ăn quả.
Theo ông Trần Xuân Định, năng lực cạnh tranh trong trồng ngô ở trong nước khó có thể cạnh tranh được với thế giới. Nếu giá ngô lên trên mức 300 USD/tấn thì trong nước diện tích ngô có khả năng phục hồi.
Cùng với các giải pháp mở rộng các giống ngô ưu thế lai, ngô ứng dụng công nghệ sinh học có tính kháng bệnh, chịu hạn tốt thì giá ngô ở mức từ 7.000 - 8.000 đồng/kg, nông dân sẽ quay trở trồng ngô trong vụ Đông ở Đồng bằng sông Hồng hay một số nơi có điều kiện thuận lợi.
Đồng tình quan điểm trên, ông Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam cũng cho rằng, tính toán chi phí và lợi nhuận, nông dân sẽ quyết định trồng cây gì. Thời gian qua, cây ngô không cạnh tranh được với cây trồng khác, bởi Việt Nam chủ yếu trồng các loại ngô truyền thống, năng suất thấp, canh tác chủ yếu trồng tận dụng trên sườn đồi, không thâm canh được. Từ đó, dẫn đến giá thành cao, hiệu quả sản xuất thấp.
Một trong các giải pháp là phát triển các giống cây trồng ứng dụng công nghệ sinh học làm thức ăn chăn nuôi có năng suất và sản lượng cao, góp phần giảm thiểu nhập khẩu các nguyên liệu, hạ giá thành thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước.
"Nếu giá ngô thế giới thời gian tới vẫn duy trì như hiện nay, chắc chắn dù ngành nông nghiệp không khuyến kích thì nông dân cũng sẽ quay trở lại trồng ngô, kể cả ngô thô xanh cho phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ", ông Nguyễn Thanh Sơn nhận định.
Còn ông Trần Xuân Định cho rằng, với diện tích nhỏ nông dân trồng ngô không có lãi, nhưng hy vọng thời gian tới, Luật Đất đai được sửa đổi sẽ tạo cơ hội được chuyển nhượng và thuê đất thì có thể hình thành sản xuất lớn. Từ đó, đưa khoa học công nghệ, cơ giới hóa vào sản xuất có thể giảm giá thành với các loại cây trồng; trong đó có ngô.
Khi giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu gia tăng, giá thành sản xuất và giá bán thức ăn chăn nuôi thành phẩm lập tức tăng theo. Để giảm chi phí nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, thực hiện bằng các biện pháp phát triển cảng biển nước sâu, hệ thống logistics... Đồng thời, tăng cường sản xuất thức ăn chăn nuôi ở trong nước; tận dụng phụ phẩm nông nghiệp như bột cá, bã bia, rơm rạ... để làm thức ăn chăn nuôi.
Hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang xây dựng Dự thảo Chiến lược phát triển trồng trọt đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng phát huy lợi thế vùng miền, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị bền vững.
Theo đó, đến 2030 duy trì diện tích ngô gieo trồng khoảng từ 600 - 700 nghìn ha, sản lượng 3,5 triệu tấn, chú trọng phát triển ngô nếp, ngô đường, ngô rau, ngô sinh khối. Vùng sản xuất ngô trọng điểm Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
Theo các chuyên gia, với tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp thay cho sản xuất nông nghiệp thì việc quy hoạch, định hướng sản xuất cùng với việc phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ đa mục tiêu cần tính đến sự linh hoạt để có thể điều tiết sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường.
Làm giàu nhờ mô hình trang trại tổng hợp Ông Trịnh Văn Toàn, thôn Thạch Lãng, xã Trường Minh, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng thành công mô hình trang trại tổng hợp để vươn lên làm giàu. Hiện mỗi năm ông thu hoạch 40 tấn quả nhãn lồng, cùng nhiều tấn quả mít thái và bưởi Diễn, dừa. Thu nhập bình quân của gia đình ông đạt 300-400...