Giả dược là gì? Tại sao có người sử dụng giả dược lại có thể giúp bệnh?
Giả dược có khả năng tạo nên một mối liên kết đủ mạnh giữa bộ não và cơ thể của bệnh nhân, giúp họ đạt được những kết quả tốt hơn trong điều trị.
Như chúng ta hay có câu đùa: “Bệnh này có mà chữa bằng niềm tin”, thì đúng là với nhiều người sử dụng giả dược với niềm tin họ đã khỏi căn bệnh mà họ gặp phải, hoặc ít nhất, giảm bớt nhiều đa.u đớ.n trong quá trình chữa trị.
Định nghĩa của giả dược thực ra rất khó có thể cố định vào 1 dạng thuố.c gì, bởi tùy vào mỗi loại bệnh và cách mà người bác sỹ khám, thuyết phục rồi chỉ định cho người bệnh mà nó sẽ có 1 dạng khác nhau.
Tác dụng của giả dược đã được công nhận một cách không chính thức hàng nghìn năm trước nhưng phải đến những năm cuối của thế kỉ 18 khái niệm này mới được công nhận theo 1 cách chính thức là được ghi vào trong từ điển y khoa.
Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy nếu người dùng có đủ niềm tin vào khả năng của giả dược thì hiệu ứng giả dược, placebo effect có khả năng tạo nên một mối liên kết đủ mạnh giữa bộ não và cơ thể của bệnh nhân, giúp họ đạt được những kết quả tốt hơn trong điều trị.
Trước đây các nhà nghiên cứu thường coi hiệu ứng giả dược là dấu hiệu của thất bại trong nghiên cứu phát triển thuố.c.
Bởi trong quá trình nghiên cứu các tác dụng lâm sàng của dạng thuố.c mới người ta hay dùng chiêu chia ra 2 nhóm sử dụng thuố.c, 1 dùng thuố.c đang được nghiên cứu, 1 dùng giả dược, cả 2 đều được cho vào bao bì giống nhau.
Nếu kết quả của 2 nhóm cho thấy họ cùng thuyên giảm hoặc cùng… không có tác dụng, thì có nghĩa là dạng thuố.c đang được phát triển đó không có tác dụng, cần phải tiếp tục nghiên cứu và chỉnh sửa thành phần.
Giả dược cũng có thể được sử dụng trong quá trình điều trị cho các bệnh nhân theo dạng “ cứng đầu” mà thường chỉ tin vào 1 dạng điều trị nhất định mà họ đã quen thuộc hoặc các bệnh nhân gặp các bệnh hiểm nghèo mà việc chữa trị có thể đã thất bại nhưng họ hoặc gia đình vẫn nuôi hy vọng và vẫn muốn tiếp tục được chữa trị.
Video đang HOT
Lúc này giả dược sẽ được coi là 1 phần của liệu pháp tâm lý nhiều hơn là thực chữa bởi nó liên quan đến các phản ứng thần kinh phực tạp có liên quan đến nhiều thứ, ví dụ như việc tăng chất dẫn truyền thần kinh cảm giác như endorphins hay dopamine, là những chất đem lại người dùng tâm lý tốt hơn, tích cực hơn…
Tất cả các điều này sẽ đem lại lợi ích cho việc điều trị, kể cũng đúng bởi khi chữa bệnh cho 1 người có tâm lý tốt thì tất cả các bên đều cảm thấy dễ dàng hơn, còn với 1 người có tâm lý xấu lúc nào cũng bi kịch hóa tình trạng bản thân thì việc điều trị cũng sẽ khó khăn hơn rất nhiề
Và cũng bởi vì đây là 1 cách chữa bằng tâm lý, nên việc làm các thủ tục cũng phải mất công 1 chút, bạn không thể cầm viên thuố.c đưa cho bệnh nhân rồi bảo uống đi thuố.c chữa khỏi bệnh.
Có những trường hợp chúng ta còn phải thực hiện đầy đủ tất cả các quy trình trong khám bệnh, xét nghiệm, chụp chiếu để cuối cùng đưa cho bệnh nhân giả dược để họ có đủ niềm tin khi sử dụng.
Giả dược thường có tác dụng trong trường hợp người sử dụng chúng không biết rằng họ đang dùng 1 thứ vô thưởng vô phạt không có tác dụng gì, nhưng nếu họ biết là họ đang sử dụng giả dược thì sao?
Trong nghiên cứu vào năm 2014 của Trung tâm y khoa Beth Israel Deaconess được phát hành trên tạp chí Science Translational Medicine cho thấy 1 kết quả thú vị.
Các nhà khoa học đã thử nghiệm phản ứng của những người bị đau nửa đầu khi chia họ ra thành 3 nhóm và mỗi nhóm uống 1 dạng thuố.c được dán nhãn, lọ đầu là tên thuố.c, lọ 2 được dán nhãn “giả dược”, lọ 3 thì không dán cái gì.
Kết quả cho thấy có đến 50% những người uống nhãn thuố.c “giả dược” cũng có tác động tốt tương tự như thuố.c thật trong việc giúp giảm đau sau khi bị đau nửa đầu.
Việc sử dụng giả dược trong điều trị cho đến giờ vẫn còn đang được tranh cãi bởi các trường phái khác nhau.
Có những người sẽ thấy đây là 1 cách hữu hiệu để chữa trị cho bệnh nhân mà ít đem lại các phản ứng phụ nhất.
Tuy nhiên cũng có những người thấy đây như là 1 chiêu… lừ.a đả.o bởi khi đưa bệnh nhân dùng các viên thuố.c không có tác dụng chữa trị mà vẫn thu đủ các loại tiề.n khám chữa bệnh thì với họ đó là 1 việc không đúng, nhất là về mặt y đức.
Vậy nên việc sử dụng hay không sử dụng giả dược cho người bệnh theo mình vẫn chỉ dựa vào các kinh nghiệm và phán đoán của bác sỹ, và nếu chúng ta chẳng may bị bệnh thì hãy cố gắng giữ được sức khỏe cả về mặt thể chất lẫn tinh thần để bác sỹ có thể điều trị hiệu quả.
Theo www.giadinhmoi.vn
Vì sao bạn nên tập thiền
Thiền không chỉ giúp thư giãn tinh thần mà còn hạn chế nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đột quỵ.
Gần đây, ngày càng nhiều người tìm đến thiền để giảm bớt căng thẳng cuộc sống. Không chỉ đơn thuần giúp cơ thể thư giãn, thiền còn tác động trực tiếp đến bộ não và hạn chế nguy cơ mắc bệnh tật.
Để hiểu rõ về tác động của thiền, trước tiên cần phân tích cơ chế phản ứng của não bộ với sự căng thẳng. Theo ABC, hệ thần kinh tự chủ trong não người chịu trách nhiệm điều khiển các phản ứng tự động đối với sự căng thẳng. Hệ thần kinh tự chủ được chia làm hai nhánh: hệ thần kinh giao cảm và đối giao cảm, đóng vai trò thiết yếu trong việc xử lý các phản ứng trên.
Cụ thể, hệ thần kinh giao cảm giúp con người đối phó hoặc tránh những tình huống gây căng thẳng hay tiềm tàng nguy hiểm, được gọi là phản ứng "chiến đấu hoặc bỏ chạy". Còn hệ thần kinh đối giao cảm cân bằng lại hệ thần kinh giao cảm, đưa cơ thể trở lại trạng thái tự nhiên ban đầu. Trong nhiều trường hợp, hai hệ thần kinh này có chức năng đối lập nhau. Nếu hệ thần kinh giao cảm khiến nhịp tim, huyết áp tăng và giải phóng các hormone căng thẳng như cortisol, hệ thần kinh phó giao cảm sẽ tác động ngược lại để cân bằng những yếu tố đó.
Các nghiên cứu chỉ ra tất cả phương pháp thiền đều có ích trong việc kiềm chế sự căng thẳng. Cụ thể, thiền giúp giảm nhịp tim và lượng hormone cortisol. Bên cạnh đó, thiền và yoga góp phần giảm huyết áp tâm trương (huyết áp thấp hơn) khoảng 3-8 mmHg và huyết áp tâm thu (huyết áp cao hơn) khoảng 4-5 mmHg so với những hoạt động khác.
Theo một nghiên cứu trên Thư viện Y khoa Quốc gia Mỹ năm 2014, dù các chỉ số trên có vẻ nhỏ, chúng rất quan trọng vì mức giảm chỉ 2 mmHg có thể khiến nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ ít đi đáng kể.
Ảnh: The Bulletproof Blog.
Nếu muốn thực hành thiền, bạn chọn một trong ba loại chính là thiền định mở (open monitoring), thiền định tập trung (focused attention) và thiền định siêu việt (automatic self-transcending).
Với thiền định mở, thay vì một vật cụ thể, người tập dồn toàn bộ sự chú ý vào tất cả khía cạnh và trải nghiệm họ bắt gặp mà không đán.h giá hay đi sâu vào chúng. Ví dụ, bạn cảm nhận được bề mặt đang ngồi trên trong khi thiền.
Còn ở thiền định tập trung, người tập thiền cần lưu tâm vào một vật cụ thể như hơi thở, vật giả tưởng, câu niệm chú, bộ phận cơ thể hay một ngoại vật. Theo cách này, họ đang điều khiển sự tập trung của mình khi thiền. Mỗi khi tâm trí rời xa vật chủ, họ cố gắng đưa sự chú ý quay lại vật đó.
Cuối cùng, thiền định siêu việt hướng người tập đến việc tụng niệm bằng ngôn ngữ Phạn, nhờ đó ai cũng có thể theo mà không đòi hỏi nhiều nỗ lực hay sự chú tâm. Theo thời gian, các câu niệm chú sẽ dần biến mất khi sự giác ngộ ở mỗi người tăng lên. Quan trọng nhất là tâm trí cần được thả lỏng. Chỉ việc ngồi, nhắm mắt và tập hai lần hàng ngày, mỗi lần kéo dài từ 15 đến 20 phút.
Hãy chọn một phương pháp thiền định bạn cảm thấy thoải mái để tập thường xuyên và kiên trì. Cũng có thể thay đổi hoặc kết hợp các phương pháp thiền ở những thời điểm khác nhau. Cần lưu ý, các kỹ thuật thiền không nghiêng hoàn toàn về thiền định mở hay thiền định tập trung mà có sự tương đồng, đan xen nhau.
Phúc Lương
Theo Vnexpress
Đâu là lý do khiến bạn nổi cáu khi đói? Kiểm soát cơn "thịnh nộ" khi đói như thế nào? Khi đói tâm trạng bạn thế nào? Dễ giận dữ, cáu gắt với người khác, xử lý công việc kém hiệu quả... Vậy đâu mới là lý do khiến bạn nổi cáu khi đói? Bạn đã bao giờ nổi cáu với ai đó khi đang đói? Đây là một hiện tượng bình thường hầu như ai cũng gặp phải, nguyên nhân là do...