“Gạo xuất khẩu VN như cô gái chăm chỉ, chưa phải là cô gái đẹp”
Niên vụ 2017 toan vùng ĐBSCL gieo trồng hơn 4,4 triêu ha, diện tích đất lúa giảm 78.200ha. Ông Nguyên Hông Sơn, Cuc trương Cuc Trông trot, xác nhận nguồn tin tổng hợp này từ các sở NN&PTNT. Đất lúa giảm, và bài toán chất lượng gạo đang đặt ra.
Ông Sơn cho biết sản lượng lúa giảm khoang 300.000 tấn so năm 2016 (sản lượng cả năm 24,9 triêu tấn lua) do: 1/ Nông dân chuyển đổi đất lúa sang cây trồng hàng năm và cây lâu năm có hiệu quả kinh tế hơn; 2/ Do ảnh hưởng thời tiết, các giống lúa đặc sản giảm năng suất.
Giờ đây làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu tạo danh tiếng cho gạo thơm Việt Nam, đang là thách thức lớn trong cách tổ chức sản xuất và quản trị thương hiệu. Trong ảnh: Làm mạ giống ST ở nông trại Hồ Quang. Ảnh: Đức Toàn.
Kỷ nguyên gạo thơm
Khi sản lượng lúa giảm, giao dịch lúa gạo có vẻ nồng ấm và giá cả bớt bèo bọt hơn. Hiên nay, hơn 60% diên tich lua vu thu đông đa thu hoach (trong tông sô hơn 750.000ha), trên đông con lua vu mua (trên 220.000ha). Lúa hạt dài có giá 5.250đ/kg (tươi), khô (6.200đ/kg), lúa IR50404 (khô) 5.300đ/kg.
Các tiểu thương ở chợ Bà Đắc tiên đoán: khi gạo ST24 của Việt Nam được chọn “Top 3 gạo ngon nhất thế giới” chắc chắn cuộc cạnh tranh nội địa sẽ diễn ra, cần phải nhân nhanh diện tích trồng giống gạo ngon này để “hạ sốt”.
Gạo Hom Mali Thái Lan và gạo CRF-F-04 Campuchia được chọn là gạo ngon nhất, nhì. Tuy nhiên, với ưu thế ngắn ngày (100 – 105 ngày) so với gạo Hom Mali (150 ngày), ST24 có thể trồng được hai vụ/năm. Đạt tiêu chuẩn hạt dài, trắng trong, cơm vừa dẻo, vừa thơm mùi lá dứa, theo hội đồng giám khảo quốc tế gồm những đầu bếp nổi tiếng và các thương nhân gạo quốc tế, ST24 sẽ tác động mạnh đến thị trường gạo thơm quốc tế.
Nhóm nghiên cứu gạo ST gồm ông Hồ Quang Cua, ThS Nguyễn Thị Thu Hương, TS Trần Tấn Phương, cho biết ST24, ST28 và khoảng 1.000 tổ hợp lai bảo đảm cho cuộc đua trong tương lai.
Các tiểu thương này hy vọng ST là câu chuyện có hậu, khi Bộ NN&PTNT chọn năm doanh nghiệp mẫu gắn logo Vietnam Rice vào cuối năm nay.
Gạo thơm ST24 được dự báo sẽ tác động mạnh đến thị trường gạo thơm quốc tế.
Video đang HOT
Dự thảo quy chế quản lý và sử dụng nhãn hiệu chứng nhận gạo Việt Nam có 7 chương, 23 điều, 6 phụ lục, quy định: đơn vị được cấp chứng nhận sử dụng logo này phải có vùng nguyên liệu tại Việt Nam, đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP hoặc các tiêu chuẩn tương đương khác trong suốt quá trình sản xuất, nhằm đảm bảo sản phẩm gạo có đặc tính, chất lượng ổn định, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm; đảm bảo tiêu chuẩn về môi trường. Thời gian thẩm định để cấp chứng nhận từ 40 – 54 ngày, thời hạn sử dụng nhãn hiệu là ba năm.
Chị Võ Thị Thắm, tiểu thương chợ Bà Đắc, nói rằng với chất lượng và đặc tính gạo ST24, riêng chị có thể phát triển 2.000ha.
Xây dựng thương hiệu
GS.TS Võ Tòng Xuân nói rằng trồng gì, ai mua là vấn đề tư duy, phải lo nội dung bên trong hạt gạo và doanh nghiệp phải có gan đầu tư vùng nguyên liệu đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Ngày xưa, Sài Gòn Rice rất nổi tiếng. Thái Lan cũng tốn rất nhiều công sức, thời gian để tạo ra giống Khao Dawk Mali 105. Campuchia có ngân hàng giống bản địa ít nên họ chọn nhanh, trong hai năm họ đạt gạo ngon thế giới, và chỉ bốn năm thực hiện chiến lược thương hiệu, họ đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.
Trong khi đó, Việt Nam mới bắt đầu xây dựng thương hiệu gạo, và đến nay vẫn còn bàn cãi xem cái nào mới là thương hiệu của ta.
TS Hà Việt Quân nhận xét: Chúng ta xuất khẩu gạo, nhưng chuyện cái lưỡi thị trường nó vẫn “ sao sao” ấy, khi chiến lược sản xuất, lập kế hoạch theo tư duy đói nghèo, cứ chạy đua sản lượng không tập trung cho cái bên trong của gạo. Chúng ta có nhận ra nguyên nhân vì sao lúa gạo của ta thấp? Lâu nay xuất gạo chỉ nghĩ làm sao túi tiền nặng là được.
Chúng ta cũng đã đầu tư vào marketing, thương hiệu, công nghệ, chỉ dẫn địa lý… nhưng tình hình vẫn như thế. Tộc người Thái biết trồng lúa sớm nhất, họ có nhiều lễ hội về văn hoá liên quan đến hạt gạo, cây lúa… nói rằng gạo có văn hoá của gạo, hãy tiếp cận dưới góc độ văn hoávà con người, nếu không chúng ta lại sẽ thất bại.
Chuyển từ lượng sang chất và tối ưu hoá
TS Phạm Hồng Sơn, Giám đốc kinh doanh Unilever Việt Nam, cho rằng mặt hàng gạo do bên nhu cầu chi phối. Về chuỗi cung ứng gạo, nghiêng về phía người tiêu dùng, chứ không phải người sản xuất. Ở thị trường nội địa, nên tập trung chuyển chiến lược từ tối đa hoá sang tối ưu hoá, chuyển từ số lượng sang chất lượng.
Diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đang giảm dần, vì vậy giải pháp tối ưu để nâng cao thu nhập của người trồng lúa hiện nay chính là nâng cao chất lượng gạo. Ảnh minh hoạ
Thực tế cũng cho thấy, thị trường chính của gạo nội địa vẫn tập trung ở chợ truyền thống. Kênh bán hàng hiện đại, chi phí cao. Nhưng đây là nơi phát huy những thương hiệu mới, sản phẩm mới, đầu tư vào đây nếu thua cũng không sao, vì nó chỉ chiếm 10% doanh số. Và vì vậy, không thể bỏ qua kênh truyền thống và cũng không bỏ qua kênh hiện đại.
Theo TS Sơn, đa phần người tiêu dùng giảm gạo trong bữa ăn và giá không tăng hơn nữa. Tính GDP thì gạo đang đứng bên ngoài, đóng vai trò là cô gái chăm chỉ, cần phải đưa lên là một cô gái đẹp.
Giờ đây làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu tạo danh tiếng cho gạo thơm Việt Nam, đang là thách thức lớn trong cách tổ chức sản xuất và quản trị thương hiệu.
Hiện nay, chi phí cho hệ thống phân phối có hai vấn đề: Tỷ suất lợi nhuận thấp, nếu thuê nhân công cao sẽ không có lãi nên ta phải nhìn về cung cầu theo hướng tối ưu hoá và tối đa hoá. Thứ hai, phải xây dựng giá trị thương hiệu và người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn vì những cam kết chất lượng.
“Hiện nay, lúa không “ế, nhưng không kéo giá lên được”, Chủ tịch UBND xã Tân Phú, huyện Tam Bình, Vĩnh Long, nói tiếp: “Rất may, có nhà đầu tư làm nhà máy chế biến gạo thành bột ở huyện Tam Bình, xã đã trực tiếp bàn bạc kết nối với nhà đầu tư để có đầu ra. Nhà máy sẵn sàng mua giá cao hơn thị trường, với điều kiện nguồn nguyên liệu thuần và không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật”.
Chủ tịch UBND xã, bà Phan Thị Loan, là kỹ sư nông học, khẳng định sẽ đáp ứng yêu cầu này. Nhưng cần có thêm thời gian giải thích với dân và tính toán lại công việc, để điều hai kỹ sư gắn với mô hình trồng lúa làm bột ở Tân Phú.
“Chuỗi cung ứng sẽ quyết định chất lượng sản phẩm, đừng can thiệp vì yêu cầu đầu tiên của chuỗi là chất lượng tốt, và quy mô đủ…”, TS Sơn khuyên.
Cũng theo TS Sơn, nếu tập trung vào phân khúc cao và siêu cao cấp, thì phải chọn khu vực thị trường về mặt địa lý mà chi phí không quá lớn. Khi phát triển kênh bán hàng, kết hợp ba thứ: chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu riêng và chứng nhận sản phẩm… làm sao đưa hàng đến các cửa hàng, xây dựng nhà phân phối hay kênh bán sỉ; nên xây dựng cửa hàng của riêng, nhưng chi phí sẽ cao. Việc đầu tư xây dựng thương hiệu là điều cực kỳ quan trọng, dù chi phí cao nhưng chắc chắn sẽ có sự bù đắp.
Nhóm nghiên cứu gạo ST đã theo đuổi việc nghiên cứu chọn tạo trong 20 năm, chưa bao giờ cung không đủ cầu, dù giá gạo ST20 khoảng 1 USD/kg. Giờ đây làm gì để đẩy mạnh xuất khẩu tạo danh tiếng cho gạo thơm Việt Nam, đang là thách thức lớn trong cách tổ chức sản xuất và quản trị thương hiệu.
Theo Vân Anh – Đức Toàn – Ngọc Bích (Thế Giới Tiếp Thị)
Thiếu chất xám, nông sản "đất 9 rồng" bị lép vế
ĐBSCL được xem là vựa lúa, thủy sản và cây ăn trái của cả nước. Tuy nhiên, việc đầu tư khoa học, công nghệ (KHCN) có quy mô lớn vào lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa xứng tầm. Vì lẽ đó, các sản phẩm làm ra của vùng có sức cạnh tranh rất yếu so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực.
Doanh nghiệp ngoại "thâu tóm" công nghệ
Ông Trần Hữu Hiệp - Ủy viên chuyên trách kinh tế (Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ) cho biết: "Thời gian qua, KHCN đã giúp nông dân tăng năng suất lúa, sản xuất thành công cá giống... Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, KHCN chưa có sự đóng góp đáng kể, như sản xuất giống gia cầm, công nghệ thu hoạch... và phần lớn bị "thâu tóm" bởi các doanh nghiệp, tập đoàn lớn của nước ngoài".
Phần lớn máy móc, thiết bị trong sản xuất lúa đều nhập từ nước ngoài (Ảnh: Người dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh thu hoạch lúa). Ảnh: H.X
Theo Vụ KHCN (Bộ NNPTNT), nhờ đóng góp của KHCN, giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp đạt 3,13%. Đến nay, cả nước đã có 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, gồm: Gạo, cà phê, cao su, cá tra, tôm, hạt điều, hạt tiêu, rau quả, sắn và đồ gỗ.
Ông Hiệp phân tích, ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung là nơi có ngành chăn nuôi gia cầm lớn. Tuy nhiên công đoạn sản xuất giống đang còn rất nhiều vấn đề rất đáng lo ngại khi chịu sự chi phối chủ yếu bởi 3 "ông lớn" là Japfa, CP và Emivest, với mỗi tháng cung cấp hơn 6 triệu con giống cho bà con nông dân.
Còn ở lĩnh vực giống cây ăn trái, ông Hiệp cho rằng, khi chọn cây giống, thay vì nghĩ đến những giống cây trồng đặc trưng của Việt Nam, phần lớn người nông dân ĐSBCL chọn các giống nông sản của Thái như chôm chôm, nhãn, xoài, mít... bởi chất lượng sản phẩm của giống ngoại ngon hơn nhiều so với sản phẩm trong nước.
GS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng Trường ĐH Nam Cần Thơ, một chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp ở ĐBSCL cho rằng: "Việt Nam là nước đứng trong top 3 thế giới về xuất khẩu gạo và cũng xuất khẩu đáng kể khối lượng thủy sản, cà phê, cao su... Tuy nhiên, giá bán các loại nông sản này vẫn thấp vì ít đầu tư chất xám, ứng dụng KHCN quá thấp, dẫn đến chất lượng sản phẩm chưa được nâng cao, chưa xây dựng được thương hiệu, từ đó kéo theo lợi tức của nông dân thấp".
"Ở ĐBSCL, có đến 80% máy móc khâu làm đất là của doanh nghiệp ngoại; 60% máy phục vụ bơm tưới và 85% máy thu hoạch phải nhập từ nước ngoài" - GS Xuân thống kê.
Cần chiến lược mạnh mẽ
Ngoại trừ giúp gia tăng phần nhỏ về năng suất, thực tế cho thấy việc áp dụng KHCN ở ĐBSCL vẫn chưa tạo được sức bật đáng kể cho ngành này. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp cho rằng, phải có những chính sách khuyến khích đủ mạnh để thúc đẩy phát triển KHCN vào sản xuất.
Ông Nguyễn Văn Hòa - Viện trưởng Viện Cây ăn quả Miền Nam nhận định: "Trong bối cảnh hội nhập sâu, việc nghiên cứu, tiếp cận và đổi mới KHCN là rất cần thiết. Do đó, cần có những chính sách hỗ trợ kinh phí trong nghiên cứu lai tạo đối với đơn vị nghiên cứu và trong sản xuất giống mới đối với người dân. Ngoài chính sách chung của Chính phủ, các địa phương cũng nên có những chính sách riêng, đặc thù trong lĩnh vực này". GS Xuân cũng cho rằng: "Cần có chiến lược ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp bài bản hơn và mạnh mẽ hơn nữa. Đồng thời, xây dựng vùng nguyên liệu chất lượng cao theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, có liên kết giữa doanh nghiệp với HTX để dễ dàng áp dụng KHCN".
Song song đó, theo góp ý của các chuyên gia nông nghiệp, để tăng hàm lượng chất xám và KHCN, nông dân cũng phải thay đổi tư duy sản xuất, phải trở thành "nông dân kiểu mới", không sản xuất theo ý mình, theo kinh nghiệm mà phải tuân thủ quy trình sản xuất khép kín, về phía doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa khâu xây dựng thương hiệu và có uy tín trên thương trường.
Theo Danviet
Hoà Bình: Đã mắt ngắm cam đủ sắc màu tại lễ hội cam Cao Phong lần 3 Người trồng cam ở đất Cao Phong, tỉnh Hòa Bình mang thứ cam hảo hạng nhất về Lễ hội cam Cao Phong lần thứ 3. Cũng trong dịp này, hàng trăm hộ dân được nhận chứng chỉ Vietgap. Ngày 18.11, UBND huyện Cao Phong đã long trọng tổ chức Lễ hội cam Cao Phong lần thứ 3. Lễ hội thu hút 120 gian...